Monday, December 21, 2009

CÓ NÊN ? Quên quá khứ - Xóa bỏ hận thù - Hướng về tương lai ?




"Hãy quên quá khứ…Hãy xoá bỏ hận thù… Hướng về tương lai… "
.
Tôi đã đọc câu này ra rất nhiều lần - cả trăm lần - để chắc mình không hiểu lầm!

.
Hãy quên quá khứ…
.
Tại hải ngoại, CSVN không ngừng kêu gọi người Việt hãy quên quá khứ để hướng về tương lai. Trong Tâm Sinh Lý học, quên quá khứ là chuyện không thể làm được. Cái gì đã đi vào bộ não thì sẽ ở đó cho đến khi con người lìa đời? Một đôi khi chấn thương sọ nảo hay tinh thần có thể làm gián đoạn dẫn truyền của hệ thống thần kinh. Nhưng khi hồi phục thì người ta vẫn nhớ lại. … Ngày nay, với tất cả thành tựu của con người trong mọi lãnh vực, văn minh trong cả khía cạnh vật chất lẫn tinh thần là nhờ quá khứ đấu tranh cả mấy ngàn năm – không chỉ qua những thành công mà chính là nhờ những thất bại. Thế thì tại sao phải quên quá khứ?
.
Nhưng “hãy” quên cái quá khứ nào? - Có phải người cộng sản muốn nói đến cái quá khứ tù đày trong những trại học tập không biết ngày mai, bị sỉ nhục mỗi ngày mà vẫn phải cám ơn “cách mạng” đã khoan hồng? Có phải người cộng sản muốn nói đến cái quá khứ của gia đình bị hăm dọa đẩy lên vùng kinh tế mới để nhà cửa còn lại cho “cách mạng” tịch thâu và khi trở về phải ngủ dưới gầm cầu, trên vỉa hè của chính nhà của mình? Quá khứ hãi hùng hễ bị chụp mũ là tư sản thì đời kể như tiêu tùng, thân bại danh liệt, tài sản tịch thu, thân tù đày? Quá khứ hãi hùng trên biển cả, khiếp đảm trong bìa rừng Thái, Lào mà mỗi gia đình người Việt ngày nay ở hải ngoại đều có 1 câu chuyện như là một phần đời… Xa hơn nữa, có phải người cộng sản muốn nói đến cái quá khứ của cuộc cách mạng địa chủ năm 1954 đã hành quyết hàng chục ngàn người hay là cuộc chôn sống tập thể cả 5 ngàn người vào Tết Mậu Thân tại Huế năm 1968? Ngược lại, có những quá khứ không nên quên bao giờ chẳng hạn như cuộc cách mang mùa Thu, Đại Thắng Mùa Xuân, những hy sinh vô bờ bến của Hồng Quân Liên Sô và Trung Quốc...?
.
Mỗi lần nghĩ về lịch sử oai hùng của dân tộc và những hy sinh của tiền nhân trong công cuộc dựng nước và giữ nuớc là tôi thấy hãnh diện và sung sướng.Không phải quá khứ nào cũng huy hoàng – và không có lý do gì tôi chỉ nên nhớ những huy hoàng ấy và bỏ qua những sai lầm như một trốn chạy. Còn như để quên quá khứ như một người mất trí thì hướng về tương lai để làm gì?
.
Ngay tại Việt-Nam ngày nay, nhiều người đã muốn quên quá khứ như mượn rượu để giải sầu. Có người còn muốn quên cả hiện tại. Phải chăng đây cũng là phản ảnh của hiện tượng hút sách, ăn nhậu, chơi ngông? – thêm vào đó nhà nước còn giúp cho đại đa số dân chúng một cuộc sống phải vật lộn với miếng cơm manh áo hàng ngày một – và một hệ thống giáo dục tẩy não để họ không có thời giờ nhớ về quá khứ hay phương tiện để tra cứu?

.
Hãy xoá bỏ hận thù…
.
Có lẽ người nói câu hãy quên quá khứ để hướng về tương lai muốn nói là hãy xóa bỏ hận thù để hướng về tương lai? Vì quá khứ là một “hiện thực” khách quan nên không thể quên được. Nhưng hận thù là sản phẩm của tâm tư con người nên con người có thể khắc phục được. Hận thù đưa đến trả thù sẽ làm cuộc sống máu me dơ bẩn. Hận thù làm tâm linh ta khốn khổ, cuộc sống mất đi cái hồn nhiên vô gía và hướng thượng… và ngay cả sau khi trả được mối thù, cái bàn tay nhuốm máu ấy vẫn không bao giờ rửa sạch…
.
Nhưng chính người cộng sản Việt-Nam đã lấy hận thù để làm cách mạng. Có cái lòng hận thù nào để giáo dục cho con cháu như thế này: “hôm qua dân quân ta bắn rơi 2 máy bay của Mỹ Nguỵ. Hôm nay dân quân ta lại bắn rơi thêm 3 chiếc nữa. Vậy tổng cộng ta đã bắn rơi bao nhiêu chiếc cả thảy?” Họ đã lấy hận thù để tiêu diệt tất cả các đảng phái không cùng chính kiến với họ. Sau khi toàn thắng ở miền Nam, thay vì dùng cái cơ hội bằng vàng này để nêu cao chính nghĩa dân tộc và hoà giải quốc gia, họ nhìn ở đâu cũng thấy toàn kẻ thù. Cái tâm lý bệnh hoạn và sợ hãi củng cố chế độ đã làm họ phải quyết định bế môn tỏa cảng trong cả 10 năm đầu. Hậu quả thì như ai cũng biết, nước Việt-Nam đã trở thành 1 trong 10 nước nghèo đói nhất của thế giới. Đánh động được lương tâm của con người qua những viện trợ nhân đạo, chính họ cũng phải nới lỏng nền kinh tế chỉ huy thiếu hiện thực, như đã từng được chứng minh qua các cuộc cách mạng ở Liên Sô và Trung Quốc. Nhưng khi tình hình đã được khả quan hơn nhờ những trao đổi với bên ngoài, họ trở lại nhìn thấy thêm kẻ nội thù, từ chính người dân của họ, những đồng chí mà cách đây không lâu đã hy sinh cuộc đời cho sự nghiệp “giải phóng” dân tộc do họ chủ xướng. Ngoài những lực lượng thù nghịch, họ đã đặt để thêm những kẻ thù trong những “diễn tiến hoà bình” - nỗi lo sợ và lời buộc tội đã mâu thuẫn với chính danh xưng của những biến chuyển mà nghe ra rất khách quan trong phát triển tự nhiên của con người. Họ khuyên người ta hãy quên quá khứ, xóa bỏ hận thù nhưng chính họ thì không bao giờ, vì hận thù vốn là sức sống, là linh hồn, là nền tảng của sự an toàn trong tư tuởng và lý luận của những người cộng sản Việt-Nam khi đi làm cách mạng!
.
Nhưng có những hận thù nào ta không nên quên chăng? – cho dù cả ngàn năm sau? – như hận thù của 2 bà Trưng Trắc Trưng Nhị trước cảnh nước mất nhà tan mà rồi cuối cùng vẫn phải nhảy xuống sông tự vẫn? Trong đấu tranh cho Chủ Nghĩa Xã Hội, người vô sản có nên quên mối thù không đội trời chung với bọn tư bản bóc lột? Không hận thù thì làm gì có cách mạng? những ai còn phân vân với tính chuyên chính vô sản này thì cứ tìm đến ông Tô Huy Rứa để nghe lời giải thích. … Hay là chỉ có người cộng sản mới được quyền hận thù?
.
Mới đây thôi, trong bài diễn văn đọc trước Quốc-Hội Hoa Kỳ, bà Thủ Tướng nước Đức đã nói gì? Cần nhắc lại, bà Merkel đã sống và lớn lên trong xã hội cộng sản Đông Đức mà vẫn trở thành Thủ Tướng của nước Đức thống nhất là một bằng chứng của sự xóa bỏ hận thù: “Nhưng đừng có ai nhầm lẫn: Khoan dung không có nghĩa là thế nào cũng được. Không khoan dung với những ai không tôn trọng và chà đạp các quyền vô giá của con người”.
Xóa bỏ hận thù không có nghĩa là đồng lõa với tội ác. Không chịu nhìn thẳng vào cái gì đã gây ra hận thù nhưng chỉ biết kêu gọi xoá bỏ, cũng như họ kêu gọi đoàn kết nhưng không chỉ cho thấy cái gì đã gây ra chia rẽ là một sự lường gạt ấu trĩ và rẻ tiền !.

.
Hướng về tương lai…
.
Có ai trong chúng ta sống mà không để hướng về tương lai? Ngay cả trong tu dưỡng cá nhân cũng để cho một sự ra đi thanh thản khi từ giả cuộc đời. Tất cả người Việt chân chính đều mong muốn thấy được một nước Việt-Nam giàu mạnh, công bằng và nhân bản. Nhưng một lần nữa chúng ta đang nói về một tương lai nào? Một sự thành cộng của chủ nghĩa xã hội tại Việt-Nam và trên toàn thế giới? Quên quá khứ để hướng về tương lai trong diễn dịch của nhà cầm quyền CSVN là quên hết (như người mất trí?) và chấp nhận trở về làm việc cho họ. “Bằng lòng đi em về với quê hương”. Những người cộng sản Việt-Nam đã nói rõ ràng rồi: “yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội”. Danh từ “đoàn kết” có nghĩa là từ bỏ vị trí chống đối hoặc không đồng chính kiến để trở về dưới sự lãnh đạo của họ. Không có hòa hợp hòa giải gì cả. Hãy thành thật với nhau như chút liêm sỉ còn lại mà chúng ta đều hiểu: không ai có tư cách mặc cả với chế độ CS hiện nay cả!
.
Tôi không tin là cho đến bây giờ những người gọi là “Việt Kiều Yêu Nước” vẫn chưa biết mình đang nói cái gì? Xin các Việt-Kiều Yêu Nước đừng lừa dối thế hệ trẻ ngày nay vì họ không có cơ hội để kiểm chứng. Xin đừng tiếp tục làm dơ bẩn những ý tưởng cao đẹp của lòng nhân đạo, tình quê hương là những giá trị cao quí của dân tộc. Nhắm mắt lại như con đà điểu chui đầu vào cát? - những người tự gọi là Việt Kiều yêu nước đi về Việt-Nam xây vài lớp học, đào vài cái giếng rồi giáo dục những người Việt khác cũng nên yêu nước như mình… Chính người viết bài này cũng đã và đang gởi tiền về Việt-Nam để giúp đỡ bạn bè thân nhân khốn khổ của mình… nhưng yêu nước và “chỉ là” lòng nhân đạo khác nhau rất nhiều! Hãy nhìn cho rõ cái nguyên nhân chính đã đưa đến tình trạng hiện nay. Đó là hậu quả của một chế độ chính trị lỗi thời đang ngự trị trên cái quê hương khốn khổ này... Con đường đi đã sai lầm rồi thì càng đi càng xa cái đích dù đi bằng cách nào đi nữa. Trong mặt tiêu cực, càng đi càng lãng phí, càng phá hoại như chúng ta đã nhìn thấy xã hội hiện nay. Dù có bao nhiêu nghị quyết, bao nhiêu “rà soát” cũng chỉ là “mị dân” mà thôi.
.
Chính cái chế độ chính trị này trong hơn 30 năm qua đã đưa đất nước thụt lùi, cụ thể là so với các nước khác trong vùng. Trong lãnh vực xã hội, chính cái chế độ chính trị này đã tạo ra 1 giai cấp thống trị mà giờ đây chẳng khác gì một loại băng đảng, bao che cho nhau và sống trên mồ hôi nước mắt của tuyệt đại đa số người dân còn lại. Cái hậu quả của chế độ chính trị này đã và đang thấy tại các quốc gia đi theo cùng một chế độ chính trị. Tại Việt Nam, để bảo tồn quyền lực, băng đảng này đối với các thế lực cường quốc thì lạy dạ run sợ nhưng đối với chính người dân khốn khổ của mình thì thẳng tay đàn áp. Người cộng sản nói rất rõ: chế độ nào cũng là chế độ độc tài của giai cấp thống trị. Trong chế độ XHCN, đó là giai cấp vô sản. Cho nên chế độ XHCN là chế độ độc tài của giai cấp vô sản. Người cộng sản cười thầm khi những kẻ theo đuôi họ cứ ráng giải thích tính dân chủ tư sản của chế độ cộng sản.
.
Nhưng thực tế chúng ta thấy gì? - chế độ của họ ngày nay quả là chế độ độc tài của một giai cấp lãnh đạo, nhưng không phải vô sản mà là một loại siêu tư sản, được bảo vệ một cách công khai bởi hệ thống chính trị và nhà nước. Điều này không chỉ thấy ở Việt-Nam mà trong hiện thực của tất cả các nước cộng sản ngày nay. Trong kinh tế, nhờ vào quyền lực sẵn có, họ hội tụ tài sản của cả quốc gia vào trong tay tập đoàn lãnh đạo của họ. Cho nên nhóm bè đảng lãnh đạo của bọn họ rất giàu trong khi quốc gia thì vẫn èo ọt và tuyệt đại đa số người dân thì vẫn nghèo đói. Trong chính trị, băng đảng của họ có quyền lực không khác mấy thời của những lãnh chúa… cái chế độ như cha truyền con nối là những ngạo mạn, thách thức đối với lương tri của con người. Nếu họ vẫn còn đó – và có lẽ phải còn chờ lâu nữa cho đến khi trình độ dân trí của dân ta đủ mạnh để chiến thắng những khó khăn và sợ hãi của cuộc sống – thì xã hội sẽ tiếp tục như vậy... Đó là cái tương lai mà Người Việt Yêu Nước muốn hướng về? Còn nếu không, hãy quên bất cứ quá khứ nào cũng được để hướng về một tương lại vô định thì nếu người nói không mù quáng là có ý xem thường khả năng phán đoán của người nghe rồi. Một số người Việt khác quả quyết họ vẫn yêu quê hương bằng một con đường hợp tác khác, như con đường của một Tôn thọ Tường thì tôi chỉ còn biết tặng họ lại hai câu thơ của cụ Phan văn Trị:
.
Anh hỡi Tôn Quyền anh có biết?
Trai ngay thờ chúa gái thờ chồng…
.
Vào lứa tuổi của tôi có bạn đã chết, đang bị đày đoạ trên chính quê hương của mình, đã vùi thây trong Thái Bình Dương bao la, trong những bìa rừng âm u ở Thái, Lào hay đang lạc lõng trên những mảnh đất xa lạ nào đó ở Châu Phi, ở Trung Đông… so với họ tôi may mắn hơn nhiều. Hơn 30 năm đã qua. Vì nhiều lý do: an ninh bản thân và gia đình, an toàn khi có dịp về thăm quê nhà, miếng cơm Tây, manh áo gấm khiến tôi đã vô tình im lặng và tránh né. Giờ đây tóc đã hai màu, còn chút tình mà vẫn không dám nói thì đợi đến bao giờ? Riêng đối với các chiến sĩ VNCH trong đó có hàng cha anh chú bác của tôi, những người đã chết cho cho một chính nghĩa đã bị chối bỏ và chưa bao giờ được nhìn nhận, họ sẽ được những người CSVN viết lại trong lịch sử như những tội đồ … tôi có thể nào quên họ, quên cái quá khứ có sự hy sinh vô bờ và cô đơn của họ? Trong tự do của hôm nay tôi vẫn nên tiếp tục “hy sinh”, không nên nói lên những khát vọng của những người bạn, của đại đa số đồng bào kém may mắn hơn tôi đễ giữ an toàn và phồn vinh cho thiểu số còn lại chấp nhận đổi đời? Tôi không có tư cách để khuyên mọi người nên nói như tôi nói. Nhưng tôi sẽ cảm thấy hổ thẹn khi khuyên họ không nên làm như thế bởi vì với tôi, viết là để công bằng trả lại cho đời chút ân tình mà tôi đã nhận, dù chỉ là ngọn lửa của một que diêm, như một người bạn của chúng tôi có nói, sẽ không đủ sức để sưởi ấm cho cả một mùa đông băng giá này!.

.
Võ Trang Hiền
.
Hèn tướng Kỳ sau bao nhiêu năm bị đồng bào nguyền rủa, da mặt giờ đây ngày càng dầy hơn trôn trâu mà không biết nhục
.

Wednesday, December 16, 2009

CUỘC CHIẾN TRƯỜNG KỲ

Nguyễn Quốc Đống
Tháng 12, 2009
.
Cuộc chiến xâm lược miền Nam Việt Nam do Cộng Sản Việt Nam (CSVN) khởi đầu vào năm 1956 đã chấm dứt vào ngày 30 tháng 4, 1975. Toàn thể đất nước Việt Nam rơi vào tay Bắc quân CS và 1 chế độ toàn trị được thành lập. Vào những giờ phút cuối cùng của cuộc chiến, khoảng vài chục ngàn người đã kịp di tản khỏi Việt Nam và thoát được sự trả thù tàn bạo của nhóm người tựï mang danh “giải phóng”. Những năm sau đó vì không sống nổi trong chế độ CS độc tài hà khắc, cả trăm ngàn người đã bỏ nước ra đi vượt biên giới vào rừng sâu ở Cam Bốt hay vượt biển bằng những con thuyền mong manh, bé nhỏ. Thân nhân của lớp người di tản hay vượt biên, vượt biển này lần lượt được bảo lãnh để ra đi trong chương trình gọi là Ra Đi Trong Trật Tự (Orderly Departure Program). Các cựu tù nhân chính trị từng bị giam giữ trong các trại tù CS được nhận định cư vào Mỹ theo chương trình HO. Tất cả những người này tạo thành 1 lớp người Việt tại hải ngoại hiện nay khoảng hơn 3 triệu người, đông nhất là tại Hoa Kỳ, khoảng hơn 1 triệu người.. 30 năm sau, chính CS cũng không ngờ là những người mà lúc đầu chúng khinh bỉ gọi là “đám người phản quốc, bám theo chân đế quốc để hưởng bơ thừa, sữa cặn, đám cặn bã của xã hội miền Nam” hay những thành phần “ngụy quân, ngụy quyền phản động” mà chúng chỉ muốn tống ra khỏi đất nước để tránh hậu hoạn, ngày nay lại trở thành quan trọng đối với sự sống còn của chúng như vậy..

.
Những người Việt rời bỏ VN ra đi tỵ nạn Cộng Sản dù dưới hình thức nào và dù ở vào thời điểm nào cũng có chung 1 mẫu số: họ yêu chuộng nếp sống tự do, dân chủ ở miền Nam và không thể nào chấp nhận sống chung với CS là những kẻ vô thần, chỉ biết tôn thờ chủ nghĩa Mác- Lênin mà không hề nghĩ đến việc bảo tồn văn hóa cổ truyền của dân tộc, những kẻ quyết tâm xây dựng 1 chính quyền chuyên chế, bảo vệ đặc quyền, đặc lợi cho cán bộ đảng viên cầm quyền trong khi bóc lột người dân đen đến tận xương tủy. Bỏ lại mọi tài sản tại quê hương, những người Việt tỵ nạn CS phải lầm than làm lại từ đầu. Họ phải học 1 ngôn ngữ mới, tập sống và làm việc trong những môi trường mới, tiết kiệm từng đồng để lo cho đời sống, dạy dỗ và hướng dẫn con em để chúng cũng thích nghi được với đời sống mới. Biết bao là mồ hôi và nước mắt đổ ra, họ và gia đình mới có được 1 cuộc sống tạm ổn định tại những vùng đất xa lạ ở Mỹ châu, Âu châu, Úc châu…Dần dần, họ có tiền dư dả, lập các cơ sở thương mại để phát triển kinh tế gia đình và của cộng đồng, con em họ học hành thành đạt đủ sức tìm được 1 chỗ đứng trong dòng chính của cộng đồng người bản xứ. Đây cũng là lúc họ nghĩ tới việc giúp đỡ các thân nhân và đồng hương khốn khó tại quê nhà. Họ cũng hào phóng đóng góp cho các tổ chức đoàn thể trong cộng đồng với mục đích là có nơi sinh hoạt cùng với các chiến hữu, các đồng hương để an ủi nhau, hỗ trợ nhau mà vượt qua các khó khăn của “đời tỵ nạn”. Cuộc sống của người Việt hải ngoại trở thành đa dạng và phong phú hẳn lên. Sự trưởng thành của các thế hệ 1 rưỡi và thế hệ thứ 2; sự tham gia của giới trẻ vào mọi hoạt động của xã hội kể cả chính trường đã khiến tiếng nói của người Việt tỵ nạn CS tai hải ngoại ngày càng trở nên quan trọng. Chính quyền điạ phương và cả liên bang đã phải chú ý đến nhu cầu đặc biệt của nhóm dân Việt này.
.
CSVN cũng ý thức được sự thay đổi quan trọng này. Trước tiên, chúng thay đổi cách dùng từ. Chúng thôi không gọi những người Việt bỏ nước ra đi là “những kẻ phản quốc, chạy theo chân đế quốc” nữa. Chúng thân ái gọi họ là “khúc ruột xa ngàn dặm”, là “Việt Kiều yêu nước’. Thực ra họ đâu còn là công dân Việt Nam sống ở nước ngoài mà có thể gọi họ là “Việt kiều”! Phần đông, sau nhiều năm sống và làm việc tại xứ người, họ đã được nhập tịch quốc gia sở tại và trở thành người Mỹ gốc Việt, người Pháp gốc Việt, người Úc gốc Việt…Sau khi Mỹ bình thường hóa quan hệ ngoại giao với VN vào năm 1995 , một số người Việt đã trở lại quê hương tìm gặp lại thân nhân, bạn bè…CSVN cũng muối mặt thành lập các ủy ban tiếp đón “Việt kiều” hồi hương, nịnh bợ họ ra mặt để hy vọng họ sẽ tiếp tục quay lại VN, đem tiền về chi tiêu để giúp cho nền kinh tế xã hội chủ nghĩa sắp suy sụp của chúng. CSVN đã ý thức được mối quan hệ mới giữa chúng và số người Việt lưu vong này. Chúng nhìn thấy cơ hội sinh tồn của chúng nơi chính những người bị chúng đầy đọa và ruồng bỏ 30 năm về trước.
.
Việc người Việt nước ngoài gửi tiền về nước bắt đầu vào khoảng thập niên 90, thoạt tiên không gây nhiều hậu quả tai hại cho cộng đồng vì thường chỉ là những số tiền nhỏ bé để giúp đỡ thân nhân. Nhưng những năm gần đây kể từ năm 2000 trở đi, số tiền hàng năm họ gửi về đã trở thành những số tiền rất lớn (8 tỉ đô la vào năm 2008). Họ không chỉ gửi về giúp thân nhân mà còn gửi về để buôn bán đầu tư kiếm lời. Và thế là họ đã trở thành đối tượng cho một cuộc chiến mới: Cộng Sản tìm mọi cách tuyên truyền để đồng bào tỵ nạn CS, nạn nhân của chúng ngày xưa quên đi quá khứ đồng ý hòa hợp, hòa giải với chúng để “xây dựng đất nước, giúp đỡ nhân dân”. Một số trí thức trẻ nghe theo lời ngon ngọt dụ dỗ của CS đã về nước giúp chúng trong các dự án y tế, giáo dục hay phát triển kinh tế… Một số các thương gia từng khởi nghiệp và sống còn nhờ vào sự hỗ trợ và đồng tiền của người Việt tỵ nạn nay đã trở mặt và thản nhiên cộng tác, làm ăn với CS. Nhận thấy cả tài lực và nhân lực của mình có nguy cơ mất vào tay CS, các tổ chức cộng đồng không ngừng bị phân hóa vì sự phá hoại của CS, khối người Việt tỵ nạn CS đã phải đoàn kết lại để chống lại sự xâm nhập của CS, bảo vệ thành trì cuối cùng của mình trên vùng đất tự do tại hải ngoại. Cả 2 bên Cộng Sản và người Việt tỵ nạn CS đã tham gia vào 1 cuộc chiến lâu dài. Trận chiến không diễn ra trên trận địa mà diễn ra trong mọi lãnh vực: văn hóa, giáo dục, chính trị, xã hội, tôn giáo… Vũ khí không còn phải là súng đạn mà là tuyên truyền, vận động, các bài viết trên báo chí, sách vở, các buổi sinh hoạt cộng đồng, các buổi triển lãm, các cuộc biểu tình… Chưa bao giờ người Việt tỵ nạn CS tại hải ngoại lại dấn thân vào việc chống sự xâm nhập của CS tích cực như vậy. Đây là mảnh đất sống cuối cùng của họ.

.
CSVN cho thấy chúng quyết tâm trong việc “nắm trọn” khối người Việt hải ngoại này. Ngay từ năm 1975, chúng đã cài người vào dòng người Việt đầu tiên di tản khỏi Việt Nam. Chúng theo dõi, quan sát chứ chưa có hành động phá hoại cụ thể. Rồi khi thấy đa số người Việt tỵ nạn CS đều giữ vững ý chí chống cộng và ngày càng nhiều người ủng hộ cho các phong trào tranh đấu cho dân chủ tại quê nhà, chúng thấy cần phải lập ra kế hoạch quy mô để kiểm soát khối người Việt này. Nhiều nghị quyết đã ra đời để phục vụ cho mục tiêu nói trên. Tuy nhiên kế hoạch quan trọng nhất của chúng được vạch ra trong Nghị Quyết 36, ban hành vào tháng 3, 2004, công khai phổ biến các chính sách của CS đối với người Việt ở nước ngoài (thành phần chính là người Việt bỏ nước ra đi tỵ nạn CS trong nhiều đợt khác nhau).
.
Đọc kỹ tài liệu quan trọng này, chúng ta thấy CSVN đặt trọng tâm vào việc phá hoại các tổ chức của người Việt hải ngoại, làm suy yếu tiềm năng chống cộng của chúng ta, gây phân hóa trong các tổ chức đoàn thể để chúng ta khó thể tập hợp sức mạnh thành một khối hầu tự bảo vệ và chống sự xâm nhập của kẻ thù. Các lãnh vực hoạt động phá hoại bao trùm nhiều lãnh vực: chính trị, văn hóa, văn nghệ, báo chí, truyền thanh truyền hình, tôn giáo, giáo dục…Để yểm trợ cho các hoạt động này, CSVN đã lập ra 1 quỹ phục vụ cho NQ. 36 lên đến cả nhiều triệu USD. Quỹ này mang mỹ từ là “Quỹ hỗ trợ cộng đồng” nhưng thực chất là tiền bạc để yểm trợ cho các tay sai CS nhằm phá hoại sự đoàn kết của cộng đồng và nhằm tiêu hao sức mạnh của cộng đồng. Tôn Nữ Thị Ninh, phó chủ tịch Quốc hội CS (đặc trách ngoại giao) trong 1 lần đến thăm Hoa Kỳ, đã tuyên bố “sẽ dùng tiền bạc và thế lực để đè bẹp sức mạnh chống cộng của người Việt tỵ nạn CS đang định cư tại Mỹ và các nước tự do khác, sẽ từng bước xâm nhập và vô hiệu hóa báo chí , truyền thanh, truyền hình của người Việt hải ngoại để các phương tiện truyền thông này sẽ trở thành công cụ tuyên truyền cho chúng.”
.

Điểm lại các sự kiện xảy ra tại hải ngoại nhất là ở những nơi có đông người Việt Tỵ nạn CS cư ngụ, chúng ta thấy không ít các biến cố đã gây xáo trộn cho nếp sống yên bình của chúng ta.
.
1- Năm 2006, báo Xuân Bính Tuất của báo Người Việt tại Nam California đã cho đăng 1 bài thơ của thầy bói Nhân Quang ca tụng 8 nhân vật chóp bu của CSVN.
.
2- Năm 2007, tuần báo Việt Weekly tại Nam California cho đăng những bài báo ca tụng Hồ Chí Minh và các bài nhục mạ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
.
3- Năm 2008, giai phẩm Xuân Mậu Tý của báo Người Việt lại cho đăng hình cờ VNCH nền vàng ba sọc đỏ trong chậu rửa chân của giới làm nails.
.
4- Đầu năm 2009, tổ chức VAALA (Hội Văn Hóa Người Mỹ gốc Việt) cho tổ chức 1 cuộc triển lãm mang tên Art Speaks (Nghệ Thuật lên tiếng) trong đó có trưng hình 1 cô gái mặc áo thung hình cờ VC (nền đỏ sao vàng) đứng cạnh tượng của Hồ Chí Minh. Khách triển lãm còn thấy 1 bức hình vẽ cờ VNCH (nền vàng với 3 sọc đỏ là 3 sợi kẽm gai).
.
5- Năm 2007, một nghị viên trẻ tuổi người Việt được đắc cử vào Hội Đồng Thành Phố San Jose, bắc California nhờ vào số phiếu của đồng hương Việt tỵ nạn CS nhưng bà này lại không ủng hộ cộng đồng Việt tỵ nạn CS khi họ muốn dùng tên Little Saigon để đặt cho 1 khu thương mại của người Việt. Bà quyết chống tên Little Saigon vì theo bà nó mang ý nghĩa “chống cộng”. Vậy bà nghị viên này sợ mất lòng ai?
.
6- Ngày 15 và 16 tháng 11, 2009 vừa qua, một cuộc triển lãm mang tên Meet Vietnam được tổ chức tại City Hall của thành phố San Francisco. CSVN muốn lợi dụng cuộc triển lãm này để tuyên truyền cho “cuộc đổi mới của xã hội Việt Nam” và từ đó kêu gọi giới tư bản Mỹ cũng như Việt mạnh dạn bỏ vốn đầu tư vào thị trường VN, kêu gọi các nhà giáo dục và doanh nhân Mỹ, Việt; các trí thức Mỹ, Việt hãy giúp đỡ VN phát triển đất nước. Phó thủ tướng VC Trương Vĩnh Trọng cầm đầu phái đoàn VC để tổ chức cuộc triển lãm này. Để tuyên truyền và hỗ trợ cho cuộc triển lãm quy mô này, VC đã cho tổ chức 3 buổi Đại Nhạc Hội có sự tham gia của rất nhiều văn công VC và một số ca sĩ Việt hải ngoại (ngày 13 tháng 11 tại Sacramento, ngày 14 tháng 11 tại San Jose và ngày 28 tháng 11 tại Dallas, Texas). Đặc biệt trong buổi trình diễn tại Dallas có tới 7 văn công VC trong Đoàn Duyên Dáng VN. Văn công chính của các buổi trình diễn “phục vụ đồng bào hải ngoại” này là ca sĩ Đàm Vĩnh Hưng, đã từng được CS bầu làm đại biểu trong tổ chức Liên Hiệp Thanh Niên của Việt Cộng. Tên này đã được nhiều bầu “Show” hải ngoại tổ chức cho hát hò tại nhiều tiểu bang ở Hoa Kỳ trong nhiều năm qua.
.
7- Ngày 21, 22 và 23 tháng 11, 2009 tại Hà nội đã diễn ra cái gọi là “Hội Nghị Người Việt ở nước ngoài lần thứ nhất” quy tụ 900 “đại biểu” của người Việt từ nước ngoài. Hội Nghị này do Nguyễn Minh Triết chủ toạ đã đặt ra 4 trọng điểm như sau:
.
Thứ nhất: Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa và truyền thống dân tộc trong cộng đồng người Việt ở nước ngoài.
.Thứ hai: Xây dựng cộng đồng người Việt ở nước ngoài đoàn kết vững mạnh thành đạt và hướng về đất nước
.
Thứ ba: Kêu gọi chuyên gia trí thức kiều bào góp phần vào công cuộc xây dựng đất nước.
.
Thứ tư: Kêu gọi doanh nhân kiều bào đóng góp vào sự nghiệp chấn hưng xứ sở.
Tất cả những sự kiện trên không phải ngẫu nhiên mà xảy ra. Tất cả đều đã làm xáo trộn và tổn hại cho cộng đồng đồng thời không nhiều thì ít cũng làm lợi cho sự tuyên truyền của Cộng Sản. Để đối phó với âm mưu thâm độc nói trên, người Việt tỵ nạn CS chúng ta đã làm được những gì trong nhiều năm qua?
.
1. Giữ vững căn cước tỵ nạn chính trị bằng cách vận động các giới chức lập pháp tại địa phương thông qua các nghị quyết “công nhận cờ vàng ba sọc đỏ của VNCH”. Chúng ta khẳng định với VC “chúng ta là người Việt tỵ nạn Cộng Sản chứ không phải là con dân của cái gọi là Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.” Do đó chính phủ của cái nước này không có quyền hành gì đối với chúng ta và chúng ta cũng không có nghĩa vụ gì phải thi hành đối với chúng cả.
.
2- Giữ vững phòng tuyến chống cộng bằng cách bỏ qua các tỵ hiềm giữa cá nhân hay đoàn thể, kêu gọi đoàn kết các phần tử quốc gia cùng chung lý tưởng yêu chuộng tự do, dân chủ.
.
3- Ủng hộ các tổ chức đoàn thể quốc gia chống cộng chân chính
.
4- Phổ biến các bài viết thể hiện lập trường quốc gia rõ rệt, phân biệt rõ lằn ranh quốc-cộng trên các diễn đàn (báo giấy, báo điện tử, truyền thanh, truyền hình…). Nghiêm khắc phê bình các báo hoặc cơ quan truyền thông có lập trường chống lại người Việt tỵ nạn CS và làm lợi cho CS.
.
5- Tẩy chay các tờ báo có lập trường thân cộng, không đọc, không quảng cáo, không gửi bài, không đăng rao vặt, chia vui, chia buồn trên các tờ báo sống bằng tiền của người tỵ nạn mà lại ăn tiền của CS và làm tay sai cho CS.
.
6- Biểu tình chống các cuộc thăm viếng của viên chức CS cao cấp tại hải ngoại. Trong quá khứ Phan Văn Khải, Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng… đã nhiều lần phải giấu diếm lộ trình và phải nhục nhã đi vào các tòa nhà bằng cửa hậu trong tiếng la phản đối của đồng bào tỵ nạn CS. Chắc chắn chúng không dám nhận những đồng bào đang phẫn nộ chửi rủa chúng là “kiều bào” hay “Việt kiều” nữa rồi.
.
7- Biểu tình chống các tờ báo hay các tổ chức ca tụng biểu tượng của CS hay làm nhục biểu tượng của đồng bào tỵ nạn CS.
.
8- Lên tiếng chống các tổ chức tôn giáo hay các nhà tu hành không còn giữ lập trường của người Việt tỵ nạn CS, các tổ chức làm từ thiện giúp CS.
.
9- Biểu tình chống các buổi trình diễn của văn công VC hay của các ca sĩ hải ngoại vì tham tiền đã quên căn cước tỵ nạn CS của mình nên rất nhiều lần về Việt Nam cộng tác với CS và nói xấu người Việt hải ngoại. Chẳng ai còn chút cảm tình với những con tắc kè đổi màu và những kẻ phản bội đáng khinh bỉ này..
.
Phải nói là chúng ta đã tốn rất nhiều công sức và tiền bạc và thì giờ trong cuộc chiến “trường kỳ” này vì kẻ thù của chúng ta quá đông, quá giàu và quá nhiều quyền lực. Và trên hết là chúng quá gian manh và nhiều thủ đoạn. Tuy nhiên cũng không phải vì thế mà chúng đã vô hiệu hóa được hoạt động của các đoàn thể chống cộng trong cộng đồng. Nhìn vào những sự việc xảy ra tại nơi có đông người Việt tỵ nạn chúng ta thấy được những kết quả nào?
.
1. Tuầân báo Việt Weekly được điều hành bởi một số người trẻ, trước kia có số độc giả rất đông. Sau khi có thái độ khiêu khích đối với cộng đồng, Ban Biên Tập đã phải rất vất vả trong việc phát hành báo. Số báo in ra chỉ còn bằng 1/5 và số quảng cáo nay chỉ còn 3/10 trước kia. Tờ báo cũng phải thay đổi thái độ, cố tỏ ra “vô tư “ hơn ngày trước!
.
2- Nhật báo Người Việt tại Nam California bị liên tục biểu tình phản đối trong 1 năm vì đã cho đăng hình cờ VNCH trong chậu rửa chân. Để chứng tỏ mình cũng “coi trọng” người Việt tỵ nạn CS, Ban Giám Đốc báo này đã cho treo 1 lá cờ VNCH lớn ngay tại Phòng Hội của tờ báo. Nhận thấy việc làm này chưa đủ mạnh, sau đó họ còn cho dựng 1 cột cờ thật cao để treo cờ VNCH ngay trước cửa tòa soạn. Hiện nay báo Người Việt còn cho quảng cáo trên đài SBTN tự nhận mình là “tờ báo luôn hỗ trợ cộng đồng và các hội đoàn quân đội tại Nam California”(?)
.
3- Nghị viên Madison Nguyễn trở thành nghị viên gốc Việt đầu tiên tại thành phố San Jose lớn vào hạng thứ 10 tại Mỹ nhưng lại phản bội cộng đồng, đã phải chống đỡ vất vả với cuộc bỏ phiếu bất tín nhiệm vào tháng 3, 2009 vừa qua. Tuy bà này thoát được cuộc truất phế của cử tri khu vực 7 tại San Jose nhưng đã làm mất sự tín nhiệm của cử tri và bà ta sẽ chẳng còn cơ may tái đắc cử vào năm 2010 nữa.
.
4- Cuộc triển lãm “Meet Vietnam” đã là một thất bại lớn vì VC chẳng thu được bao nhiêu kết quả so với công sức chúng đã bỏ ra. Những ai muốn dự triển lãm đều phải có giấy mời của Ban Tổ Chức. Có 1 cuộc triển lãm bình thường nào lại đặt hàng rào an ninh kỹ càng như thế? VC đã phải chịu nhiều nhục nhã vì sự chống đối của đông đảo đồng hương khắp nơi qua 2 ngày biểu tình tại San Francisco. Cứ nhìn những tên cán bộ VC trong Ban Tổ Chức Triển Lãm và khách mời của chúng lầm lũi cố đi thật nhanh giữa tiếng reo hò phản đối và đả đảo của đồng hương, chân phải bước tới 2 bậc thang 1 lúc trước cửa tòa thị chính, chúng ta cũng cảm nhận được nỗi nhục nhã ê chề của chúng tại nơi chốn những người Việt đồng hương của chúng cư ngụ. Họ không tha thứ cho chúng dù 35 năm đã trôi qua. Những hình ảnh nhục nhã này của lũ “buôn dân, bán nước” còn được trưng bày trên báo chí địa phương chứng tỏ đâu phải lúc nào kẻ mạnh, kẻ giàu cũng thắng đâu!
.
5- “Hội Nghị Người Việt ở nước ngoài” tổ chức lần đầu tiên tại Hà Nội vào 3 ngày 21, 22 và 23 tháng 11, 2009 vừa qua cũng là 1 thất bại. VC đã bỏ ra nhiều triệu mỹ kim để tổ chức hội nghị này, mục đích là muốn lôi kéo người Việt ở nước ngoài đem tiền của và tài năng về “giúp dân, giúp nước”. Chúng muốn sự hợp tác của các trí thức trẻ, của các doanh nhân Việt, một mặt để trục lợi, mặt khác để cho mọi người thấy chúng được người Việt ở nước ngoài chấp nhận, không tẩy chay, chống đối. Nhưng nhìn vào thành phần tham dự chúng ta vẫn chỉ thấy những khuôn mặt cũ đã nhiều năm cộng tác với VC. Những người này chỉ về với tư cách cá nhân. Có đoàn thể nào tín nhiệm bầu họ làm đại diện để nói lên tiếng nói chung đâu mà họ có thể dám vỗ ngực xưng danh là “đại biểu”. Chẳng những không công nhận tư cách đại biểu của những người Việt này, đồng hương Việt tỵ nạn CS tại hải ngoại còn không tiếc lời phỉ nhổ đối với những kẻ ngày xưa thoải mái hưởng bổng lộc của quốc gia VNCH, ngày xưa phải trốn chui, trốn nhủi vì sợ CS bắt mà ngày nay lại vô liêm sỉ nịnh bợ CSVN chỉ vì một chút danh hão và một chút lợi mọn.. Đồng hương cứ đọc những lời phát biểu của độc giả đối với bài viết “ Việt Nam, 1 chốn bình an” do Nguyễn Hữu Liêm viết sau khi tham dự Hội Nghị nói trên thì sẽ rõ họ nghĩ sao về một con người đã “từng là công dân của VNCH,và đã phải bám theo tàu để ra đi tỵ nạn CS vào ngày 30 tháng 4, 1975”. Ông này sau khi đã thoát được cảnh đói rét tại quê nhà thời “giải phóng” , được học hành tử tế và thành danh nhờ vòng tay bao dung của đất nước và nhân dân Hoa Kỳ, nay, chỉ sau có 3 ngày dự Hội Nghị mới khám phá thấy một chốn “bình an” duy nhất; đó là quê hương Việt Nam! Tuy vậy đương sự vẫn lấy chuyến bay”đi” California tiếp tục sống với vợ con mà không dám “ở lại chốn bình an” vừa tìm thấy! Đúng là luận điệu của một kẻ đạo đức giả hiệu. Tại sao chúng ta dám khẳng định Hội Nghị này là một thất bại. Vì trong số 300,000 trí thức được đào tạo tại hải ngoại, người ta chỉ thống kê được con số khiêm nhường là khoảng 200 người về làm việc tại VN mà thôi. VC còn muốn nhiều người hơn nữa. Số tiền đầu tư ở VN cũng chỉ dưới hình thức mua nhà, mua đất còn số tiền đầu tư vào sản xuất, vào các doanh nghiệp thực tế không có là bao.
.
Trong cuộc chiến trường kỳ này, người Việt tỵ nạn CS chúng ta đã đạt được một số thành quả, và CSVN vẫn chưa thể “nhuộm đỏ” được cộng đồng người Việt hải ngoại. Dù bị tấn công trên nhiều mặt trận từ chính trị đến văn hóa, xã hội, tôn giáo… chúng ta vẫn giữ vững được sự đoàn kết cần thiết, nhận diện được kẻ thù ở ngoài cũng như ở trong chính hàng ngũ của chúng ta và có biện pháp thích ứng đối với sự phá hoại của chúng. Chúng ta vẫn tiếp tục củng cố hàng ngũ, xây dựng các tổ chức đoàn thể trong cộng đồng và giáo dục giới trẻ để họ sẽ kế thừa sự nghiệp tranh đấu dân chủ hóa nước nhà. Tuy vậy quãng đường trước mắt còn nhiều chông gai và đầy thử thách. Theo 1 tài liệu mà nhà báo Phạm Trần vừa nghiên cứu, CSVN bây giờ đã quyết định theo đuổi đường lối mới trong việc “kiểm soát và khống chế” khối người Việt ở hải ngoại:
.
Thứ nhất chúng sẽ tìm cách “dùng người Việt tỵ nạn để chống người Việt tỵ nạn”. Nếu dùng những người đã lộ rõ mặt chỉ là tay sai của VC chúng sẽ rất khó len lỏi vào hàng ngũ của chúng ta. Nhưng nếu dùng những người Việt tỵ nạn không có lập trường quốc gia vững chắc, thành tích chưa bị bôi bẩn vì các hoạt động ủng hộ VC, những người này sẽ dễ dàng len lỏi vào hàng ngũ của chúng ta và sự phá hoại của họ sẽ vô cùng nguy hiểm vì nhiều khi chúng ta khó phân biệt bạn, thù. Do đó, trong tương lai tại các cộng đồng nơi có đông người Việt tỵ nạn CS cư ngụ chúng ta sẽ thấy tuy 1 đoàn thể nhưng có thể sẽ có 2 tổ chức cùng song song hoạt động: 1 tổ chức chống cộng quyết liệt, còn tổ chức kia thì có lập trường mập mờ hơn, khi thì chống cộng tỏ ra có lập trường quốc gia nhưng có lúc lại có lời nói và hành động đi ngược lại đường lối của người Việt tỵ nạn CS.
.
Thứ hai: CSVN sẽ liên lạc với thân nhân của đồng bào hải ngoại còn đang sống tại VN, tìm cách nhờ họ móc nối với thân nhân tại nước ngoài để khuyến khích (?) hay có thể là đe doạ (?) để những người này phải cộng tác với chúng dưới một hình thức nào đó. Kẻ thù của chúng ta rất rành trong phương pháp vận động quần chúng cho mục tiêu của chúng nên chúng ta không thể không cảnh giác đềø phòng.
.
Sự việc vừa mới xảy ra tại thành phố Dallas, Texas không khỏi khiến chúng ta phải suy nghĩ nhiều. Biết được một buổi Đại Nhạc Hội mừng Lễ Tạ Ơn sẽ được tổ chức tại Dallas vào ngày 28 tháng 11, 2009, nhưng lại có mặt của rất nhiều văn công VC, đặc biệt là tên ca sĩ Đàm Vĩnh Hưng, các tổ chức cộng đồng và nhiều đoàn thể tại Dallas và Fort Worth, Texas đã ra 1 tuyên cáo lên án Đại Nhạc Hội này. Đại diện 2 tổ chức cộng đồng tại Dallas và Fort Worth là các ông Thái Hóa Tố và Nguyễn Xuân Hùng đã liên lạc với 2 tờ báo Người Việt Dallas và Bút Việt để xin đăng Bản Tuyên Cáo của cộng đồng kết án buổi trình diễn có văn công VC tham dự, đồng thời kêu gọi đồng hương biểu tình phản đối. Hai tờ báo này đều từ chối, không đăng Bản Tuyên Cáo này. Ông Cao Chánh Cương, Ủy Viên Kế Hoạch Ủy Ban Phát Huy Chính Nghĩa Quốc Gia, cũng liên lạc với 2 tờ báo trên với tư cách cá nhân, xin đăng Bản Tuyên Cáo của cộng đồng và sẽ trả tiền, nhưng Ban Phụ Trách của 2 tờ báo này vẫn quyết liệt từ chối. Ông Thái Hóa Lộc, chủ nhiệm tờ Người Việt Dallas, chủ tịch của Hiệp Hội Truyền Thông Báo Chí tại Dallas cũng chính là anh em chú bác ruộtï của ông Thái Hóa Tố, chủ tịch Cộng đồng Người Việt Quốc Gia Dallas. Điều khiến đồng bào khắp nơi phẫn nộ là chính 2 tờ báo này đã cho đăng quảng cáo rầm rộ cho buổi Đai Nhạc Hội Thanksgiving ngày 28 tháng 11, 2009. Vậy 2 tờ báo này dứt khoát quay lưng lại với đồng bào Việt tỵ nạn CS. Họ có còn đứng trên lập trường của người Việt quốc gia tỵ nạn CS hay không? Thái độ của 2 tờ báo lớn trong cộng đồng người Việt hải ngoại từ chối không nói lên tiếng nói và nguyện vọng của người Việt tỵ nạn CS khiến chúng ta phải suy nghĩ và phải có thái độ thích đáng đối với những cơ quan truyền thông sống trong lòng cộng đồng, sinh tồn và phát triển nhờ người Việt tỵ nạn mà lại có thái độ phản bội người Việt tỵ nạn.
.
Hiện nay, chúng ta không sống trong 1 hoàn cảnh bình thường. Những người Việt sống trong cộng đồng của chúng ta dù nói ra hay không, hẳn họ cũng phải suy nghĩ và có 1 chọn lựa, tìm một chỗ đứng trong thế phân tranh hiện nay: hoặc là cương quyết chống bè lũ CS độc tài, buôn dân, bán nước dù cuộc sống của họ sẽ phần nào bị xao động, dù quyền lợi của bản thân và gia đình sẽ có đôi chút thiệt thòi, hoặc là chấp nhận thỏa hiệp với CS để bản thân và gia đình có chút lợi, chút danh, để cuộc sống thêm phần “ý nghĩa” với những chuyến du lịch về VN ăn chơi, để tìm được chút “bình an” như Nguyễn Hữu Liêm đã tìm thấy sau 3 ngày dự “Hội Nghị người Việt ở nước ngoài” tháng 11, 2009 vừa qua tại Hà Nội. Chọn đứng ở chỗ nào và làm gì là trách nhiệm của mỗi người chúng ta. Chọn tham gia cuộc chiến trường kỳ này hay không, và ở mức độ nào cũng là trách nhiệm của mỗi người chúng ta. Tuy nhiên đây không chỉ đơn thuần là 1 cuộc chiến để 2 bên tranh giành quyền lợi. Đó là 1 cuộc chiến giữa “dân chủ và độc tài”, giữa “thiện và ác”, giữa “Đảng CSVN toàn trị và dân tộc VN”. Vì trách nhiệm của bản thân đối với sự an nguy của cộng đồng, của người Việt tỵ nạn chính trị tại hải ngoại, vì tương lai con cháu của chúng ta và trên hết vì tương lai của một Việt Nam dân chủ, phú cường, chúng ta đừng quản ngại mà hãy mạnh dạn lên đường. Trong cuộc chiến trường kỳ này, có lúc chúng ta thắng, cũng có lúc đối thủ của chúng ta giành thắng lợi nhưng chiến thắng cuối cùng dứt khoát sẽ dành cho những người dân Việt Nam chân chính, thực sự yêu tổ quốc, dân tộc Việt Nam và không quản ngại hy sinh.
.
" Có trung hiếu nên ðứng trong trời ðất" NCT

Sunday, December 13, 2009

Hồi ký TRONG LÒNG ĐỊCH - Trần Trung Quân

Tội ác này do bọn VC và những thằng sư đội lốt thầy chùa nằm vùng như thằng thầy chùa Thích Trí Quang đã âm mưu dàn dựng để hỏa thiêu thầy Quảng Đức . Hãy nghe Hồi ký Trong Lòng Địch để biết xác thực về dã tâm thú tính của chúng, chủ mưu dùng Phật giáo để đánh đổ nền đệ nhất VNCH, sát hại hai anh em ông Diệm, Nhu và mục tiêu sau cùng là cưỡng chiếm miền Nam VN bằng vũ lực với sự tiếp tay của đám thầy chùa Ấn Quang (những thằng đầu trọc đội lốt thầy chùa), những thằng tướng hèn nhát, tham nhũng như thằng Dương văn Minh và bọn thời cơ chủ nghĩa
.

.
Thân mời bạn hữu nghe Hồi ký TRONG LÒNG ĐỊCH của tác giả Trần Trung Quân, là một cựu gián điệp của VNCH đã trải qua 10 năm nằm vùng trong cục R của Việt Cộng, qua đó bạn hữu sẽ nghe được những sự thật phơi bày sau hơn 34 năm với những bao nhiêu oan khiên, nghiệt ngã của người dân Việt, trên đất nước của chúng ta .......
.
Thật là một điều BẤT HẠNH & KHỐN NẠN VÔ CÙNG !!!........ cho dân tộc VN ở vào giai đoạn này khi nhân phẩm của con người đã bị vùi dìm xuống tận cùng bùn đen bởi những kẻ đội lốt tu hành Phật giáo, và bọn thú vật Việt gian CSVN.
.
Xin bấm vào "link" dưới đây để nghe :
.

Saturday, December 12, 2009

"Sư" ông Nhất Hạnh Là Ai ?


LỜI THƯA

Nam mô bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam mô Tồi tà Phụ chính Hộ pháp Chư tôn Bồ tát Ma - ha - tát
Thưa quí vị thiện tri thức,
Đại sư tinh vân một bậc long tượng của phật giáo trung hoa cận đại, đã nói rằng:
Muốn tìm hiểu nội dung của một tôn giáo và xem tôn giáo ấy có thực sự cần thiết cho cuộc sống chúng ta hay không,tất nhiên chúng ta nhất định phải tìm hiểu người đứng đầu tôn giáo ấy. nhân cách và trí tuệ của người ấy có thực sự đáng để cho chúng ta sùng bái và tín thờ hay không? và khi chúng ta sùng bái tín thờ ông ta,liệu ông ta có thể dắt dìu chúng ta giải thoát được điều phiền muộn khổ đau trong cuộc đời? tôi nghĩ đó là một đề tài chúng ta cần phải biết, trước khi tín ngưỡng tôn giáo đó. (trích lời nói đầu của cuốn sách “thích ca mâu ni phật”, dịch giả Dương Thu Ái, NXB Văn hóa - Thông tin, Hà nội ấn hành năm 2000).
Thật vậy, từ khi một người xuất hiện trước quần chúng với tư cách giáo chủ, đạo sư và thu hút được đám đông bằng tài năng thuyết giảng cũng như bằng những tư tưởng cải cách độc đáo của mình, thì bắt buộc chúng ta phải tìm hiểu Ông ta là ai? nhân cách như thế nào? thu hút quần chúng với mục tiêu gì? nội dung tư tưởng của y có mang lại lợi ích thiết thực cho quần chúng hay chăng? y sẽ dẫn dắt mọi người đi đến đâu?
Nhất Hạnh trở về Việt Nam với đầy đủ nghi trượng của một vị giáo chủ,được đón tiếp nồng hậu trong tư cách một nhà lãnh đạo tôn giáo có quyền lực và những tác phẩm của ông được độc giả chào đón như một danh nhân văn hóa. Đi tới đâu, ông ta cũng được sùng bái như một nhà khai đạo, một nhà lập thuyết tầm cỡ, một pháp sư có biệt tài rao giảng về đủ thứ đề tài và cả một nhà bình luận văn học dám thách thức tất cả những học giả Việt Nam trong việc bình giảng truyện kiều.
Dù thế nào đi nữa, Nhất Hạnh đã trở thành một hiện tượng nổi bật hiện nay trong toàn cảnh phật giáo Việt Nam, với đủ loại vai trò như nhà lập thuyết, diễn giả, dịch giả, nhà thơ, nhà văn, học giả, nhà chính trị, nhà văn hóa thế giới,nhà bình luận văn học, nhà cách mạng tôn giáo cho nên việc tìm hiểu về nhân cách, hành trạng, sự nghiệp và cả lý thuyết của Nhất Hạnh quả là một công việc cần thiết và chính đáng cho tất cả chúng ta những người phật tử biết quan tâm đến vận mệnh đạo pháp.
Những bài viết sau đây chỉ là những nhận định về một hiện tượng gọi là hiện tượng nhất hạnh đang xảy ra ngay tại quê hương Việt Nam và cả trên thế giới nữa.
Tài liệu thiếu thốn và kiến giải nông cạn,chắc chắn những bài viết sau đây sẽ còn nhiều khiếm khuyết, kính mong chư vị cao minh hoan hỷ phủ chính giúp cho.
Ngưỡng mong sao những người phật tử chúng ta luôn luôn nâng cao ngọn đèn bát chánh, ngõ hầu nhận biết rõ ràng về những gì nằm đằng sau tất cả mọi hiện tượng cuộc sống kể cả hiện tượng Nhất Hạnh, rồi có thể vạch ra một con đường đưa bản thân thoát khỏi bóng đêm dày đặc của vô minh,cũng giúp đỡ những người xung quanh không còn bị quáng mắt lầm lẫn trước những tấn tuồng hí lộng giữa thế gian - và luôn luôn biết phân biệt đâu là những vị đạo sư chân chánh với giáo lý như thật, và đâu là những tên trùm mafia tôn giáo đội lốt nhà Phật mà rao truyền những thứ tà kiến dị dạng, tuy màu mè hấp dẫn nhưng chỉ khiến chúng sanh sớm đọa lạc vào hố hầm sanh tử luân hồi mà chẳng biết ngày nào ra khỏi!
Nam mô bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam mô Tồi tà Phụ chính Hộ pháp Chư tôn Bồ tát Ma-ha-tát
***

Chương thứ nhất

NHẤT HẠNH, MỘT NGƯỜI ĐAM MÊ DANH HIỆU THIỀN SƯ

Đạo phật không bao giờ dạy chúng ta kết án ai hoặc buộc tội bất kỳ ai cả. và đức phật cũng không phải là quan tòa xét xử bất cứ chúng sanh nào. Dưới con mắt của những người đặt trọn niềm tin nơi đấng Điều Ngự Trượng Phu - Thiên Nhân Sư, thì Ngài là hiện thân của từ bi vô biên và trí tuệ vô hạn lượng. Lại nữa, chân lý tối thượng thì không hề liên quan tới những việc đúng sai phải trái tốt xấu, vượt ra ngoài mọi biên kiến, mọi phân biệt nhị nguyên. Nhưng là những người phật tử đang lần dò từng bước trên con đường cầu đạo vô thượng bồ đề, hàng phàm phu như chúng ta nếu không căn cứ vào lời dạy chân thật của đức Phật và Chư tổ, để phân biện đâu là chánh kiến đâu là tà kiến, thì dễ sa vào bóng tối u mê mông muội và cuối cùng đánh mất cả lối về.
Nhất là chúng ta trót sanh nhằm thời đại không có Phật, thì phải lấy giáo pháp công truyền và giới luật truyền thống làm Thầy, làm ngọn đèn soi sáng cho những bước chân non nớt của mình.
Hiện nay, sân khấu tâm linh thế giới đang xuất hiện lắm thánh nhân giả mạo, như là Thanh Hải vô thượng sư, Ông Tám Lương Sỹ Hằng, đạo sư Chơn Quang, Thiền sư Thanh Từ, và cả thiền sư Nhất Hạnh nữa! họ bày ra nhiều tấn tuồng lạ mắt hấp dẫn làm quần chúng lạc lối qui y, chánh tà lẫn lộn, hoặc rêu rao những giáo lý hoa mỹ, trống rỗng làm mê hoặc những người kém phước duyên, nhằm phô trương bản ngã để kiếm tìm danh lợi, hơn là biểu hiện từ tâm và thức tỉnh để cải biến tâm thức chúng sanh hoặc những hành vi dối trá với mưu đồ áp đặt quyền lực tôn giáo, mang tính cách bỡn cợt nhân sinh hơn là giáo dục đạo đức chân chánh trong chí nguyện đưa tất cả hữu tình đến chân trời giác ngộ, giải thoát khổ đau.
Nổi bật nhất trong số đó có Nhất Hạnh, tự phong cho mình là Thiền sư, một nhân vật hùng tài có khả năng chọc trời khuấy nước, đã từng gây nên một hiện tượng độc đáo, được nhiều giới phật tử quan tâm.
Thật vậy, không có vị tu sỹ phật giáo nào có quá khứ tu tập nhiệt thành và nghiêm túc như Nhất Hạnh, nhưng cũng không có vị tu sỹ phật giáo nào dễ bị tha hóa và gây nhiều tai tiếng như Nhất Hạnh. Ông ta vừa là nhà chính trị, nhà thơ, nhà văn, học giả, giáo chủ, nhà truyền đạo, pháp sư, thuyết giảng và phiên dịch kinh điển, và cả bình luận áng văn chương bất hủ như truyện kiều của Nguyễn Du. Cho nên viết về một con người như vậy, quả thật vô cùng khó khăn và thường dẫn đến thiếu sót, manh mún.
Nhưng dù sao, Nhất Hạnh đã trở thành một hiện tượng nóng bỏng và sôi nổi như cuộc đời và hành trạng của ông ta vậy. Chúng tôi xin nói về hiện tượng Nhất Hạnh qua các tư liệu khiêm tốn mà mình đã sưu tập được. Nếu có gì sơ suất, xin quí vị bổ khuyết giúp cho.

I - TƯỚNG MẠO VÀ NHÂN CÁCH CỦA NHẤT HẠNH:

Khi muốn đánh giá một vị minh quân hay một vị chân sư, cổ nhân thường quan niệm đến việc xem xét tướng mạo và đánh giá nhân cách rất kĩ. Tại sao? Bởi vì người Đông phương quan niệm rằng, tâm và tướng vốn Không Hai, không khác.
Ví dụ: khi gặp thời thác loạn, các vị anh hùng hào kiệt thường có khuynh hướng truy tìm Chân Chúa, để cùng nhau qui thuận và khuông phò, trong mục tiêu an định thiên hạ. Nhưng làm thế nào để nhận ra ai là chân chúa ai là kẻ âm mưu soán nghịch? Chỉ căn cứ vào tướng mạo và nhân cách để phán đoán vị ấy có phải là bậc khoan nhân đại độ, có đại chí và đại tâm có thể dung nạp và khuất phục anh hùng hào kiệt trong thiên hạ hay chăng?
Huống hồ một vị tự xưng là đạo sư của phật giáo thì chúng ta làm sao có thể sơ suất trong việc quán xét tướng mạo, nhân cách và khí độ của ông ta theo quan điểm chánh kiến nhà Phật được? Chúng tôi dã tận mắt chiêm ngưỡng Nhất Hạnh khi ông ta đi từ Đại nội cho đến chợ Đông Ba vào buổi sáng ngày Rằm tháng giêng Ất Dậu 2005. Cách đây hơn 40 năm, chúng tôi đã đọc tác phẩm của thiên tài Nhất Hạnh nhưng mãi đến bây giờ mới được dịp quan sát “đối tượng” từ một cự ly rất gần và cuối cùng chúng tôi đã nhận định như sau:
Nhất Hạnh có dung nhan bình thường, và có thể gọi là tầm thường. Không có thánh tính. Không có cốt cách phi phàm và khí độ thiền sư xuất cách. (Nghĩa là trên khuôn mặt nhất hạnh không có dung nghi của một vị chân tu hoặc tổ sư Thiền).
Nhận xét chăm chút hơn nữa, chúng ta sẽ thấy diện mạo Nhất Hạnh giống như một cư sỹ và nghệ sỹ hơn là một tu sỹ thiền tông chính hiệu, mặc dù vô cùng ham thích danh vị Thiền sư. Da ngăm ngăm, nước da không được sáng sủa cho lắm. Hào quang vô cùng mờ nhạt, kém sinh khí.
Trán khá cao, thông minh, thừa khả năng biện giải thế trí nhưng thiếu chiều sâu minh triết Đông phương, đỉnh đầu nhô lên; kiếp trước có tu tập thiền quán ít nhiều.
Nốt ruồi to trên mi mắt phải và dưới chân mày phải,nói theo nhân tướng học,thì đó là dấu hiệu “lụy vì nữ sắc”. Nếu nói theo quan điểm Phật giáo thì đó là dấu hiệu của kẻ dễ dàng bị tha hóa bởi hoàn cảnh bên ngoài và nhún mình trước áp lực của người phụ nữ.
Được cái lỗ mũi thẳng và đẹp, có phước báo nhưng đôi môi quá dày, chứng tỏ tràn đầy đam mê, đam mê cảm giác mạnh và đam mê quyền lực.
Hai lỗ tai mỏng và vểnh ra, rất xấu tướng, đôi mắt thường hay láo liên. Khi thuyết giảng, Nhất Hạnh thường hay liếm môi mép, nhãn quang yếu ớt và không ngay chính: tâm bất định và bất an, mặc dù luôn luôn khao khát hân ngưỡng sự an lạc. Không bao giờ nhìn thẳng vào người đối diện.
Nhất Hạnh có đôi mắt của những kẻ khiếp nhược, luôn luôn sợ hãi, chẳng khác chi đôi mắt của kẻ tâm thần và loạn thần kinh.
Những vị Thiền sư chân tu thì không bao giờ có đôi mắt như vậy.
Ví dụ: đôi mắt của Thiền sư Quang Phú, cố Chánh đại diện Miền Khuông Việt, hoặc đôi mắt của Trí Quang Thượng nhân, mới thật là đôi mắt của con người tu tập thiền định chân chánh: sáng như mặt trời ban mai, ăm ắp thiền khí và tỏa ra sức mạnh đặc trưng của một bậc suốt đời dành trọn vẹn cho công việc tu tập thiền định, với luồng nhãn lực luôn luôn làm kẻ đối diện phải kính ngưỡng, qui thuận, không dám khởi tà tâm, tà ý khi đứng trước mặt.
Còn đôi mắt của ngài Tịnh Khiết và Giác Nhiên, thì vô cùng nhu quyến, tỏa ngát tình thương đối với tất cả mọi người, bất kì ai được đứng cạnh Ngài cũng đều cảm nhận một luồng sinh khí rất mát dịu, thoải mái.
Đằng này, chúng ta nếu quan sát kĩ một chút, chúng ta thấy Nhất Hạnh tự xưng thiền sư nhưng ngài có đôi mắt quá kém cỏi, đôi mắt của kẻ tuân phục đàn bà và không dám phản kháng bất cứ điều gì ngoài việc vâng theo ý đồ của những người thuộc hạ dưới trướng. Đôi gò má ẩn tàng ưu tư ủy mị, che giấu phiền não.
Vóc dáng của người Việt Nam trung bình, tầm thước, vai xuôi đầy nữ tính. Giọng nói nhỏ nhẹ, rề rề, thơn thớt, êm dịu như giọng nói phụ nữ. Dường như có khuynh hướng tâm thần và khả năng thu hút những người thuộc loại tâm thần.
Văn khí mềm mại, ủy mị, óng mượt. Làm thơ thường mang nặng bản chất “duy lý”, thiếu chân thực và hay cường điệu hóa, khoa đại, hư cấu vô lối.
Loại văn chương “trang sức lòe loẹt” và màu mè này chỉ hấp dẫn những người phụ nữ tầm tầm, những kẻ phụ nam lười biếng tư duy, những người cư sỹ ít học nhưng ưa trình diễn và đi hỏng cẳng trên mặt đất, những vị tu sĩ bị ức chế tình dục thái quá, những vị ni cô hướng ngoại, thiếu định hướng tu tập và luôn luôn mù mờ về con đường giải thoát trước mặt.

II - LÝ LỊCH NHẤT HẠNH:

a). - Thời thơ ấu và tuổi thanh niên.

Nhất Hạnh tên thật là Nguyễn Xuân Bảo, sinh năm Bính Dần 1926, tại làng Thành Trung, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên. Nhưng theo tác giả bài viết “Máu chảy về tim” trong tạp chí An Ninh Thế Giới cuối tháng xuất bản vào tháng 12/2004 thì năm sinh của Nhất Hạnh được ghi nhận là 1922.
Những điểm sai khác này dường như không đáng kể, bởi lẽ không ảnh hưởng gì tới cuộc sống và sự nghiệp của Nhất Hạnh cả. Theo ngài Từ Mẫn chủ nhiệm NXB Lá Bối Sài Gòn, thì gia đình Nhất Hạnh gốc người Thanh Hóa, vào Thừa Thiên, Trung Việt lập nghiệp không bao lâu trước khi chuyển vào Nha Trang vào lúc Nhất Hạnh khoảng 9,10 tuổi. (Xem bài giới thiệu do Đại sư Từ Mẫn viết cho truyện ngắn Cửa Tùng Đôi Cánh Gài của Nhất Hạnh được trích đăng trong tuyển tập Những Truyện Ngắn Hay Nhất Của Quê Hương Chúng Ta, do Nhà xuất bản SÓNG ấn hành năm 1973).
Nhất Hạnh xuất gia năm 16 tuổi (khoảng năm 1941), tại tổ đình Từ Hiếu trước Cách Mạng Tháng Tám 1945, bái ngài Thanh Quý làm bổn sư thế độ, được sư phụ đặt pháp danh là Trừng Quang, pháp hiệu Tâm Quán (ngoài ra còn có những bút hiệu Nhất Hạnh, Nguyễn Lang, B’su Danglu,…).
Qua tác phẩm tình người với bút hiệu tâm quán,tập truyên ngắn đầu tay khá đặc sắc với giọng văn chân thành đã làm rung động trái tim người Phật tử, thì cuộc sống xuất gia được Nhất Hạnh ghi lại bằng ngòi bút tinh tế, chan chứa tình người tình đạo và cả những ước nguyện nhiệt thành của một con người thấm nhuần giáo lý giải thoát và hết sức hăng say với lý tưởng hoằng pháp lợi sanh. Có thể nói rằng, Tình Người là tập hồi kí của một người xuất gia trong thời kì “hành điệu”, dưới hình thức văn chương giản dị, và tràn trề thiên vị của một tập truyện ngắn.
Qua tác phẩm này, chúng ta biết được một chàng thanh niên tu sỹ Nhất Hạnh luôn luôn xác tín niềm tin vào Tam Bảo, tự nguyện tu hành nghiêm chỉnh,chăm chỉ học tập với chí nguyện đền đáp ơn giáo huấn của Thầy Tổ cũng như ơn bảo bọc của chúng sanh. (chúng tôi sẽ trở lại tác phẩm này trong Chương “Nhất Hạnh Với Hiện Đại Hóa Phật giáo”).
Ngoài ra, chúng ta có thể phát hiện tâm tình uyên nguyên trong sáng của tỳ kheo Trừng Quang trong bài văn Sám Phát Nguyện.
Bài văn này đã làm phát khởi niềm tin tôn giáo cho những người theo pháp môn Tịnh độ tại Huế đã hơn 50 năm nay - mà đa số phật tử Huế đều là những tín đồ thuần thành chuyên niệm Nam mô A Di Đà Phật cầu nguyện vãng sanh Tây phương Cực Lạc, được Giáo hội Phật giáo Việt Nam chính thức đưa vào Nghi Thức Tụng Niệm cho các Phật tử hành trì trong thời khóa Niệm Phật Tịnh độ.
Chưa hết, tỳ kheo Nhất Hạnh còn dịch bài Sám Quy Mạng ra thơ lục bát Việt Nam. Nhất Hạnh đã Việt hóa với lời thơ vừa dễ hiểu vừa súc tích, được lưu hành rộng rãi không những trong thiền môn qua các thời khóa Lăng Nghiêm buổi công phu khuya.
Qua mười năm tu tập tại chùa Từ Hiếu, trong hoàn cảnh đất nước còn chiến tranh, giặc Pháp trở lại, càn quét, hãm hiếp, cướp bóc, chiếm đóng…và dân chúng thì tản cư, bất an, trôi giạt, cho nên cuộc sống của các vị tu sỹ chùa Từ Hiếu cũng như các chùa khác chắc chắn phải gian khổ hơn những người dân giữa vùng giao tranh, nhưng tất cả đều được trôi qua trong nhẫn nại lặng lẽ, và niềm tin bình dị.
Vào khoảng 1949-1950, tỳ kheo Nhất Hạnh vào Sài Gòn để tham dự khóa Phật học Trung cấp và Cao cấp tại Phật học đường Nam Việt
Năm 1954, hòa bình được lập lại, nước ta bị chia cắt làm 2 miền. Miền Nam bị đặt dưới sự kiểm soát của Diệm. Đây là thời điểm phôi thai của một “Giáo hội Phật giáo” còn non trẻ trong một đất nước chưa được ổn định về mặt an ninh, chính trị lẫn kinh tế dưới quyền thao túng của anh em gia đình Ngô Đình Diệm và…viện trợ Mỹ!

b). - Tuổi trưởng thành.

Khoảng năm 1955, sau khi hoàn tất các khóa học tại Phật học đường Nam Việt, Đại đức Thích Nhất Hạnh tham gia làm các tờ báo và tạp chí như Liên Hoa nguyệt san (chủ nhiệm Thích Đức Tâm và tòa soạn đặt tại đường Trung Bộ, Huế), báo Sen Hái Đầu Mùa, và chủ bút tờ Phật giáo Việt Nam.
Năm 1957, Nhất Hạnh cùng các tu sỹ như Thanh Từ, Thanh Văn (tức Nguyên Hưng), Thanh Tuệ, sư cô Diệu Âm,… khai sinh Phương Bối Am với sự giúp sức của những cư sỹ nhiệt thành như Lý Đại Nguyên, phụ tá thân thiết như Cao Ngọc Phượng…
Phương Bối Am là một trang trại rộng gấn 26 mẫu tây tại vùng Đại Lão Sơn (nay gọi là Đại Lào), cách Sài Gòn khoảng 180 km-được Nhất Hạnh xem như là một chốn tu học,dưỡng sức,và ẩn cư tạm thời trên bước đường hoằng hoá dài xa,đầy trắc trở. Nhưng huyện Bảo Lộc là một điểm nóng của Khu Dinh Điền do dân Công giáo toàn tòng di cư lập nên (do chính phủ Diệm thành lập bằng viện trợ Mỹ), dĩ nhiên chính quyền sở tại không mấy hài lòng khi xuất hiện một cơ sở Phật giáo như là Phương Bối Am vậy. Do đó đến năm 1961,chính quyền huyện Bảo Lộc viện cớ rằng Phương Bối Am hiện đang thuộc vùng kiểm soát của Mặt trận Giải phóng miền Nam Việt Nam cho nên ra lệnh cấm chỉ hoạt động. Nhất Hạnh và bằng hữu bị buộc phải rời bỏ cái nôi êm ấm của mình
Sau đó không bao lâu, Nhất Hạnh sang Mỹ dạy học tại viện đại học Priceton, New York. Viết tác phẩm Bông Hồng Cài Áo tại Medford 1962. Tập tùy bút này được nhiều Phật tử hâm mộ, khiến tên tuổi tác giả Nhất Hạnh được biết tới nhờ vào tác phẩm này.
Trong thời gian dạy học tại Mỹ, tỳ kheo Nhất Hạnh có dịp vân du Nhật Bản, Pháp quốc và các nước Tây phương. Chắc chắn rằng, những năm tháng tiếp cận nền văn minh kĩ thuật Âu Mỹ và Nhật Bản đã ghi đậm những dấu ấn quan trọng trong lí tưởng hiện đại hóa Phật giáo mà Nhất Hạnh vốn ấp ủ và nung nấu từ lâu khi còn là chú sa - di của chùa Từ Hiếu. Những dấu ấn quan trọng khó phai mờ này, đã góp phần hình thành nên một cái gọi là “Sự nghiệp hiện đại hóa Phật giáo” của Nhất Hạnh sau này.
Ngày Phật Đản 8 tháng 4 (tức ngày 11 tháng 5 năm 1963), chính phủ Diệm - Nhu cấm treo cờ Phật giáo và không cho phát thanh nhân dịp đại lễ này, khiến tất cả Phật tử Huế tỏ ra công phẫn, biểu tình rầm rộ đòi hỏi tự do tôn giáo.
Và chiều tối hôm ấy, dân chúng tụ tập tại Đài phát thanh thì xe tăng của Ngô Đình Cẩn bắn càn vào đám đông, đàn áp vô cùng dã man khiến 8 Phật tử bị giết hại và nhiều người bị thương. Một làn sóng chống đối nổ ra. Ngày 11- 06 - 1963, hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu để bày tỏ ý chí quyết liệt của Phật tử Việt Nam trước bạo quyền Diệm - Nhu dưới sự che chở của Đế quốc Mỹ. Giáo sư viện Đại học Huế ra tuyên cáo. Sinh viên xuống đường đấu tranh.
Ngày 20 - 08 - 1963, Diệm - Nhu phá hủy tất cả chùa chiền và tàn sát tăng ni khắp những ngôi chùa lớn trong nước. Máu của người Phật tử đã loang vấy nơi nơi. Giới nghiêm 24/24. Báo chí bị kiểm duyệt gắt gao. Dư luận thế giới tỏ ra bất bình. Chính phủ Mỹ bị chỉ trích dữ dội. Cabot Lodge sang Việt Nam làm Đại sứ để có thể ổn định tình thế. Quân đội và các tướng lãnh vào cuộc với sự bật đèn xanh của Đại sứ Mỹ. Ngày 01-11-1963 đảo chính và qua hôm sau Diệm, Nhu bị bắn chết.
Khi chính quyền Diệm - Nhu bị lật đổ, Phật giáo bừng tỉnh và bắt đầu khởi sắc với những chương trình hoằng hóa rộng lớn, trong đó, có chiến lược phát triển văn hóa Phật giáo song song với phát triển văn hóa dân tộc với dự kiến thành lập một viện Đại học Phật giáo.
Năm 1964,Thượng tọa Thích Minh Châu về Việt Nam sau hơn mười năm du học tại Ấn Độ, Anh quốc, Tích Lan (Sri Lanka). Nhất Hạnh đã được Thượng tọa Thích Minh Châu mời về Việt Nam để cùng nhau thành lập và xây dựng Viện Đại học Vạn Hạnh vào niên khóa 1965-1966. Trong bước đầu phôi thai, Viện Đại học Vạn Hạnh đặt cơ sở tạm thời tại chùa Pháp Hội đường Phan Thanh Giản (nay là Điện Biên Phủ), gần Ngã Bảy.
Vị Thượng tọa trẻ tuổi Nhất Hạnh vừa tất bật với công việc giảng dạy sinh viên của Viện Đại học Vạn Hạnh,lại vừa chăm lo thành lập trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội đặt trụ sở tại Phú Thọ Hòa, nay là chùa Pháp Vân bên cạnh trường Tân Phú.
Trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội chính là bước khởi đầu trong chiến lược “hiện đại hóa Phật giáo” của thượng tọa Thích Nhất Hạnh với tôn chỉ “đưa Phật giáo vào cuộc đời”.
Tác viên là những người Phật tử tự nguyện theo học trong 2 năm,với chương trình giáo dục rất phong phú để có thể sinh hoạt “Ba cùng” với những người dân nông thôn và giúp họ phát triển cuộc sống kinh tế vật chất lẫn văn hóa tri thức. Đại khái ngoài những môn học nâng cao văn hóa, nghiệp vụ, tác viên còn học chăn nuôi, y tế, cày cuốc, trồng trọt, kiến trúc nhà cửa, tâm lí cộng đồng,…Tác viên còn đảm nhận vai trò giáo viên, y tá, thợ xây, lập nhà trẻ, săn sóc nhi đồng, vận động một nếp sống văn minh, thực hiện những công tác từ thiện. Lần đầu tiên,một người tu sỹ Phật giáo đã mưu toan cải biến thế gian bằng những phương thức thế gian dưới chiêu bài Phật giáo (Xem Nẻo Về Của Ý, tác giả Nhất Hạnh).
Sau hơn 2 năm trở về Việt Nam để thực hiên khát vọng “Hiện đại hóa Phật giáo” của mình, Nhất Hạnh thực sự đã thú nhận thất bại. Và lối thoát cho nhà tu ham việc thế gian này chỉ còn là “xuất ngoại để dạy học”. Và giữa năm 1966, Nhất Hạnh đáp máy bay sang Mỹ trước khi chính quyền Thiệu - Kỳ ra lệnh tống giam hoặc tìm cớ thủ tiêu.
Như rắn mất đầu, trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội bị suy yếu dần rồi chìm lỉm trong dòng sinh hoạt bất tận của cuộc chiến tranh tàn khốc nhất trong lịch sử Việt Nam.
Kết quả là các tác viên của trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội có hơn mười người hoặc bị “kẻ lạ mặt” tấn công bằng súng, ném xác xuống sông Đồng Nai hoặc bị ném lựu đạn chết tại khuôn viên trường, hoặc bị giết bằng những cái chết không rõ ràng bởi những thủ phạm giấu mặt.
Dường như có năm ba người được chôn cất tại trường, nay là phía trước chùa Pháp Vân, bên cạnh nấm mồ của Đại đức Thích Thanh Văn (qua đời sau một tai nạn giao thông ở Phan Rang rồi được mang về an táng nơi đây 1973).

c). - Bước đường lưu vong và bị tha hóa.

Năm 1967, tại thủ đô Paris nước Pháp, nhà chính trị Nhất Hạnh ấn hành Hoa Sen Trong Biển Lửa rất nổi tiếng. Cuốn sách này được tác giả viết tại Pháp và được tung về Việt Nam một cách “bất hợp pháp”, đã gây nên một phong trào chống đối mạnh mẽ chính quyền Nguyễn Văn Thiệu và đòi Mỹ phải rút quân khỏi Việt Nam. Đây là bản kết án bọn đế quốc xâm lược Mỹ, do một tu sỹ Phật giáo biên soạn.
Đương nhiên cuốn sách bị cấm xuất bản công khai tại Việt Nam, giấy xấu và chữ nghĩa in ty-pô lem nhem, nhưng không sao, dường như tất cả thanh niên Phật tử Việt Nam thời ấy đều săn lùng cho ra một bản để đọc ngấu nghiến và chuyền tay không rời. Danh vọng Nhất Hạnh trở nên lừng lẫy trong giới thanh niên có chút suy tư thao thức trước thời cuộc và vận nước.
Một lần nữa,Nhất Hạnh lại nổi tiếng khi công khai tuyên bố đòi Mỹ rút quân khỏi Việt Nam cũng như chấm dứt oanh tạc miền Bắc Việt Nam. Trong thời kì này, Nhất Hạnh đã hợp tác chặt chẽ với Võ Văn Ái (tức nhà thơ Thi Vũ, tác giả cuốn Tiếng Kêu Trầm Thống Trước Sự Tàn Phá Nhân Loại, do Lá Bối Saigon xuất bản 1965). (Chúng ta nên nhớ rằng, tất cả các cuộc hôn nhân chính trị giữa hai “đại ma đầu duy ngã độc tôn” thì không bao giờ lâu bền hơn bọt nước cả).
Trong thời gian này, Nhất Hạnh tuy vẫn còn mang chiếc áo của tu sỹ Phật giáo nhưng thực chất Nhất Hạnh là một nhà chính trị hơn là một vị tỳ kheo. Nhất Hạnh vẫn thường xuyên khoác nhật bình nâu, đội mũ, đi giầy với phong cách rất Tây.
Công việc hàng ngày của ông là viết tài liệu phản chiến, tổ chức biểu tình, tiếp xúc với đủ loại thân hào nhân sỹ trí thức quốc tế, gặp gỡ các nhà ngoại giao như Ngoại trưởng Hoa Kỳ, bắt tay các chính khách Liên Hiệp Quốc như Tổng Thư Ký U Thant, thuyết trình trước mặt tổng thống Mỹ tại Tòa Bạch Ốc (Nhà Trắng), kêu gọi chính phủ Pháp, Ấn Độ…hãy ủng hộ nhân dân Việt Nam bằng cách gây áp lực để Mỹ chấm dứt oanh tạc miền Bắc và rút quân xâm lược ra khỏi miền Nam Việt Nam.
Trong sinh hoạt chính trị cũng như trong tất cả hoạt động tôn giáo của Nhất Hạnh chúng ta chớ quên rằng, lúc nào cũng có sự góp sức và cả lèo lái nữa, của người đệ tử thân tín nhất, cô Cao Ngọc Phượng. Nghĩa là: “Bên cạnh Ngài, luôn luôn có Nàng!”.
Dù muốn hay không Nhất Hạnh đã trở thành nhà chính trị nhất là khi cùng Võ Văn Ái thành lập cái gọi là “Tổ chức bảo vệ nhân quyền”, với sinh hoạt chuyên nghiệp là tổ chức biểu tình, tuyên bố, gặp gỡ các nhà lãnh đạo chính trị quốc tế trong mục tiêu đòi hỏi một nền hòa bình cho Việt Nam, chấm dứt chiến tranh xâm lược của Mỹ và các nước chư hầu.
Từ 1970 trở đi, Nhất Hạnh chung sống với cô Cao Ngọc Phượng tại một lâu đài gần kề Paris để thuận tiện cho các sinh hoạt chính trị của mình. Cô Cao Ngọc Phượng vừa làm Chánh Văn Phòng cho lãnh tụ Nhất Hạnh vừa là trợ lý và bao biện tất cả công việc đời thường khác như: ăn uống, tiếp tân, chăm sóc sức khỏe (nói chung là Tứ Sự Cúng Dường!). Thời gian này, hai người cho chào đời 2 đứa con. Sự kiện này khiến tất cả Phật tử hải ngoại tại Âu Châu như Cao Huy Thuần, Võ Quang Yến, Thái Thị Kim Lan, Cao Hữu Phước (tức Philip Cao), Thân Thị Ngọc Quế, Nguyễn Tường Bách, Võ Thị Thanh Xuân, tất cả đều tỏ ra dị ứng trước một nhà sư đồng hương nhưng có cuộc sống phóng túng, phạm giới, háo danh, đam mê quyền lực chính trị, nhất là không tuân thủ những giá trị Phật giáo truyền thống.
Và đương nhiên, những người Phật tử thuần thành này đã bảo nhau phải xa lánh Nhất Hạnh và luôn luôn xem như những người ngoài cuộc đối với hoạt động chính trị của một người khoác áo tăng sỹ như ngài Nhất Hạnh. Phải nói rằng, trong cộng đồng người Việt ở hải ngoại thì uy tín của Nhất Hạnh đã sa sút trầm trọng và chẳng có ai còn giữ được niềm tin nơi bộ cà sa rách nát của Ngài cả! Nhất Hạnh chỉ còn sử dụng tài nghệ văn chương và thi ca để có thể thu hút được giới trẻ, vừa hời hợt vừa kém tri thức và thiếu căn bản Phật học để có thể nhận định đúng đắn về một nhà tu quá hiện đại, một con người bí ẩn.
Thế nhưng, sau 1975, khi nhân dân Việt Nam giành lại được chủ quyền và đuổi Mỹ cùng chư hầu ra khỏi Tổ quốc, thì Nhất Hạnh lại đứng đầu tổ chức Bảo Vệ Nhân Quyền, công khai phê phán và chống đối chính quyền Việt Nam và thành lập cơ quan gọi là “Máu Chảy Ruột Mềm”, vận động kiều bào pháp và hải ngoại đóng góp tiền bạc để thuê những chiếc tàu lớn chạy ngoài khơi hải phận Indonesia, Singapore, Malaisia, để cứu vớt những người vượt biên rồi đưa sang Australia hoặc đảo Guam (thuộc Mỹ, nơi này vốn là căn cứ chiến lược của B.52).
Khi Nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam lên tiếng thì các chính phủ Malaisia, Indonesia, Singapore ra lệnh trục xuất Nhất Hạnh và đồng bọn.
Nói thực ra, công việc từ thiện cứu vớt các thuyền nhân trên biển đã mang lại cho Nhất Hạnh một chút uy tín chính trị nào đó. Nhất là đối với những người chống cộng thì dĩ nhiên ủng hộ Nhất Hạnh hoàn toàn trong việc quyên góp tiền tài và sức người. Nhất Hạnh không còn cô đơn nữa. Và với chút uy tín này, và chiếc y cà-sa vô cùng quí báu của Đức Phật, một mớ kiến thức Phật học, Nhất Hạnh có thể “mượn vốn đạo Phật” mà gây dựng sự nghiệp của mình chẳng mấy khó khăn (1980).
Trở về nước Pháp, Nhất Hạnh quay lui với việc tu học. Dường như Nhất Hạnh bắt đầu hiểu được khả năng của mình và trực ngộ ra rằng : Mình không thể làm lãnh tụ chính trị, và cũng không đủ điều kiện thực hiện cuộc sống chính trị, bởi con đường chính trị luôn luôn chông chênh, hiểm nguy và khó thành công
Hoặc giả, Nhất Hạnh nếu thực hiện mưu đồ chính trị dài hạn thì buộc phải lấy Phật giáo làm cơ sở, như Lưu Bị lấy Kinh Châu làm cơ sở vậy. Chi bằng trở về với đạo Phật và tìm cách xây dựng quyền uy, danh lợi, sự nghiệp bằng vốn liếng sẵn có của Tam bảo. (Thánh Gandhi bảo: Thực chất tôn giáo là chính trị. Bất cứ kẻ nào chủ trương rằng, “tôn giáo không lien quan đén chính trị”, tức là kẻ ấy không hiểu chi về tôn giáo cả.). Hiện nay, Nhất Hạnh tuyên bố không làm chính trị và không liên quan tới chính trị nữa. Nhưng, chỉ có trẻ con và những người đệ tử mù mờ về lí lịch Sư Ông mới có thể tin vào lời tuyên bố không mấy chân thực này!
Nhất Hạnh bắt đầu công cuộc tham khảo kinh điển Nikaya và các văn bản của Krishnamurti, phân tâm học, triết học hiện sinh hữu thần của Tây phương đương đại… Một người thông minh và có căn bản Phật học như Nhất Hạnh thì không phải là không làm được trong việc chế biến pháp môn tu hành.
Pháp “Hiện tại lạc trú” do đức Phật thuyết giảng trong Kinh tạng Pali, nay được trình bày và sửa đổi qua tài nghệ văn chương của một nhà văn kiêm thi sỹ thì chắc chắn là độc đáo, mới lạ và hấp dẫn. Những cuốn Trái Tim Mặt Trời,Phép Lạ Của Sự Thức Tỉnh,An Trú Trong Hiện Tại,Hoa Sen Từng Cánh Hé … đã mở đầu cho việc khai sinh ra một Sư Ông Nhất Hạnh hoàn toàn khác xưa.
Cao Ngọc Phượng tỏ ra là một cánh tay phải vô cùng đắc lực và nhiệt thành trong việc lôi cuốn, vận động thanh niên thiếu nữ tụ họp dưới trướng Sư Ông. Với khả năng nhạy cảm và sức chịu đựng chịu đựng dẻo dai của người phụ nữ Nam bộ, cùng sở học cùng văn hóa phong phú Tây phương, Cao Ngọc Phượng đã giúp Nhất Hạnh gây dựng nên một tổ chức khá hoàn chỉnh, tương tự như Ashram của Thánh Gandhi ở Ấn Độ (tiền thân của làng Mai ngày nay).
Năm 1982, thấy rằng sự nghiệp hiện đại hóa Phật giáo của mình cần phải có một căn cứ địa vững chắc, để làm nơi tu học cho đệ tử càng lúc càng đông, do đó Nhất Hạnh xây dựng Làng Hồng tại miền Tây Nam nước Pháp, rồi vài năm sau được đổi tên thành Làng Mai cho đến nay. Tên chữ của Làng Mai là Đạo Tràng Mai Thôn.
Đó là "việc lớn", như vậy, xem ra tương đối tạm ổn, còn việc nhà thì phải làm sao?
Bây giờ, Nhất Hạnh đã trở thành một vị Giáo Chủ, một Nhà Lập Thuyết, một vị Đạo sư, thì không lẽ cập kè mụ vợ bên cạnh và dây dưa miễn cưỡng với hai đứa con của mình? Sự kiện bi hài này e rằng “coi không được, nuốt không trôi” chút nào!
Hai đứa con thì gởi người ta nuôi nấng và chăm sóc, bằng tiền in sách và tiền cúng dường của Phật tử, rồi thỉnh thoảng ghé thăm. Điều này cũng là chuyện thường ở các nước Tây phương mà thôi. Còn cô vợ và đồng thời cũng là đệ tử tin cẩn, đồng chí thân thiết?
Có lẽ qua lắm lần thuyết phục gay cấn, cuối cùng Sư Ông khuyến khích cô vợ bé bỏng yêu dấu của mình xuất gia làm người đệ tử đầu tiên và thân cận nhất của Giáo Chủ.
Theo lời tường thuật công khai của Hòa thượng Z. tại một ngôi chùa cổ kính ở Huế, một bậc tôn túc tiền bối nổi tiếng về giới hạnh và chí nguyện hoằng pháp, (bởi vì quá tôn kính, chúng tôi xin miễn nêu pháp hiệu của Ngài), thì Nhất Hạnh đã mang bà vợ của mình sang Ấn Độ, đến tận đỉnh núi Linh Thứu, (thánh địa uy nghiêm nhất của Phật tử khắp thế giới, nơi ngày xưa đức Phật đã thuyết giảng nhiều kinh điển quan trọng), và Nhất Hạnh đã làm lễ cạo tóc cho vợ mình tại đây.
Ngài Giáo chủ pháp môn Tỉnh Giác đã đặt pháp danh cho vợ mình là Chân Không và truyền giới Tỳ- kheo- ni cho nàng cũng tại nơi đây. (thực sự Ngài đã một vị Tỳ Kheo phá giới rồi, thì lấy đâu ra giới luật để trao truyền cho nàng?)
(Câu hỏi quan trọng này, xem ra chúng tôi không thể trả lời nổi, xin các bạn thỉnh vấn Ngài để nhận câu trả lời tối hậu).
Trên chặng đường hoằng pháp khắp thế giới dĩ nhiên bên cạnh Giáo chủ, lúc nào cũng có sư cô Chân Không tháp tùng và vợ ngài luôn luôn ban hành những quyết định quan trọng. Cũng lắm lần, sư cô Chân Không đã thay mặt Sư Ông Nhất Hạnh để quyết định tất cả mọi việc lớn nhỏ trong tập đoàn Làng Mai.
Nếu Nhất Hạnh là Bố Già, là Ông trùm Mafia, thì sư cô Chân Không là consigliore, quân sư đặc biệt luôn luôn cặp kè bên Ngài. Nàng cũng làm thơ, viết sách, dạy dỗ, nhất là tổ chức và điều hành Tổng Công Ty Sản Xuất Tâm linh. Sư cô Chân Không đã từng lắm lần bay sang Canada thuyết giảng và, viết nhật ký tu học, làm công tác tổ chức giáo đoàn như là thành lập Làng Cây Phong, tổ chức, điều hành công việc Phật sự và thuyết giảng tại tu viện Kim Sơn ở Los Angles vân vân… cũng như tại các đạo tràng khác.
Mệnh lệnh do Chân Không đề ra vẫn được chư vị đệ tử trong Làng Mai chấp hành nghiêm túc như là thánh chỉ của Đại Giáo Chủ Sư Ông.
Ngoài ra, từ năm 1990 cho đến nay, Nhất Hạnh còn hoạt động truyền bá Phật giáo tại Làng Cây Phong Canada, đạo tràng Kim Sơn, Hoa Kỳ, (viện chủ là Thích Tịnh Từ), vân vân… chưa kể những chuyến lưu diễn hoằng pháp tại Trung Quốc, Úc Châu, Liên Xô cũ,…Nhà xuất bản Lá Bối (Pháp), liên tục phát hành toàn bộ những cuốn sách Nhất Hạnh chưa kể những bài giảng được thu băng cassette dường như số lượng không thể tính nổi, được lén lút truyền về Việt Nam và được xuất hiện dưới hình thức “in chui”.
Cho đến đầu năm 2005, Nhất Hạnh cùng Bà Vợ của mình là sư cô Chân Không dẫn dắt đạo tràng Mai Thôn trở về Việt Nam, theo lời mời của Giáo hội Phật giáo Việt Nam để thăm viếng quê hương và “trị liệu và hóa giải”, theo lời của Nhất Hạnh trình bày trong các buổi giảng (được ghi băng Video và chuyển thành sách báo…). Chúng tôi sẽ tường thuật và bình luận về công cuộc “trị liệu và hóa giải” của ngài trong một chương trình sau.

***
Chương thứ hai:

NHẤT HẠNH VÀ ĐẠO PHẬT HIỆN ĐẠI HÓA

I. MỞ ĐẦU:

Vào những năm của thập niên 60 và 70, Nhất Hạnh được nhiều phật tử biết đến như là một nhà cải cách nổi tiếng, với phương châm hiện đại hóa Phật giáo. Nghĩa là, nói tới Nhất Hạnh tức là nói tới hiện đại hóa Phật giáo, nói tới hiện đại hóa Phật giáo tức là nói tới Nhất Hạnh. Không những các phật tử quan tâm đến sinh mệnh đạo pháp mà ngay cả người Việt Nam khác cũng không thể thờ ơ trước sự kiện đã khiến Nhất Hạnh gây chấn động dư luận quần chúng một thời này. Đến nỗi một nhà thơ hoàn toàn dâng hiến cuộc sống của mình cho thơ ca như thi sỹ Bùi Giáng cũng có nhận định về Nhất Hạnh như sau:
Nhất Hạnh có nguồn thơ chứa chan. Chúng ta không hiểu vì lẽ gì nguồn thơ đó lại không đủ sức ngăn cản, khiến ông hì hục hiện đại hóa Phật giáo Uyên Nguyên.
Trường hợp Nhất Hạnh là trường hợp một thi sỹ thiên tài bị vướng phải cạm bẫy của triết học Tây phương.
Nhưng riêng gì Thượng tọa Nhất Hạnh lâm vào trường hợp bi thiết đó? Còn nhiều kẻ khác. Và ngay cả một thiên tài Nhượng Tống cũng không thoát khỏi ma lực của tinh thần khoa học đời nay.
(Trích tác phẩm đi vào cõi thơ của Bùi Giáng, trang 63,
CA DAO xuất bản tại Saigon 17/10/1969).
Chúng ta nếu muốn tìm hiểu Nhất Hạnh thì buộc phải tìm hiểu công cuộc hiện đại hóa Phật giáo của Nhất Hạnh ra làm sao? Không thể bỏ qua.
Thật vậy, ngay từ khi còn là một tu sỹ rất trẻ, Nhất Hạnh đã ôm hoài bão “hiện đại hóa Phật giáo” hoặc “đưa Phật giáo vào cuộc đời”. Chúng ta có thể tìm thấy tư tưởng của Nhất Hạnh trong tác phẩm đầu tay như tập truyện ngắn Tình Người. Đây là một tập tùy bút của một chú sa di pháp hiệu Tâm Quán chùa Từ Hiếu, hơn là tập truyện ngắn mặc dù được trình bầy dưới hình thức văn chương của một tập truyện. (Trong bản in đầu tiên, ở trang cuối cùng có ghi rõ: Chuyện của Tâm Quán, viết từ 1951, Lá Bối Sài Gòn xuất bản lần thứ nhất 3000 cuốn. K.D. số 2507 BTT/BC3/XUẤT BẢN ngày 15-9-1964).
Chú Mãn thường bày tỏ thắc mắc:
- Em không hiểu tại sao một nền đạo học cao siêu như Đạo Phật mà không được giới trí thức học hỏi. Giới trí thức hình như ít ai có sở đắc về đạo Phật. Còn đạo Phật trong quần chúng bình dân thì đã không phản chiếu được đạo Phật đúng mức, mà lại còn trà trộn vào những mê tín của Thần Lão. Làm sao hả chú? Làm sao để đem đạo Phật trả lại cho giới trí thức?
- Chú cũng biết ở các triều Lý, Trần Việt Nam, đạo Phật đã thịnh hành lắm, phần lớn giới trí thức trong nước đều là các nhà Phật học. và đạo Phật đã đóng góp thật đáng kể cho thời đại. Nhưng mà trí thức Việt Nam sau đó theo cái học khác và bỏ đạo Phật lại cho quần chúng bình dân nắm giữ. Do đó người mà trong đạo Phật có chen vào mê tín dị đoan và đạo Phật bị hiểu sai lạc là đằng khác.
- Em thấy những tu viện như thế này có thể phản chiếu được tinh thần sinh hoạt tâm linh của đạo Phật, nhưng ít ai tiếp xúc với các tu viện để thấy được điều đó.
- Cũng vì thế nên ở Huế mới có Phật học đường Tây Thiên và Báo Quốc, ở trong Nam có Phật học đường Lưỡng Xuyên Phật học hội, ở Bắc có hội Phật giáo Bắc Kỳ.
Các nhà hữu tâm đang cố gắng đem đạo Phật trở về trong cuộc đời , và chính học tăng như anh em ta phải mang một trọng trách nặng nhất. Chừng nào chúng ta tốt nghiệp Phật học đường Báo Quốc, chừng đó chúng mình sẽ cố gắng đem đạo Phật tới cho thanh niên. Chnungs ta sẽ có những trường học và những bệnh viện Phật giáo như ngày xưa ở Lý Trần.
- Em thấy con đường xa vời vợi, nhưng mà em rất được khích lệ bởi ý tưởng duy tâm đạo Phật.
Tôi trầm ngâm rồi nói chậm rãi :
- Công cuộc duy tân đạo Phật đòi hỏi một cuộc cách mạng về giáo lý, giáo chế và về giáo sản nữa. Chừng nào các Phật học đường đào tạo được một số người đáng kể, chừng đó cuộc duy tân mới được thực hiện. Chú xem, làm sao không đem đạo Phật trở về cuộc đời cho được ? Chiến tranh đang gây thảm họa. Sự chia rẽ thù hằn lên đến cao độ. Bao nhiêu tiếng kêu thương của chết chóc, đói rách, tù đày. Chúng ta làm sao an tâm sống mãi những ngày êm ả trong tu viện ?
Mỗi khi đàm luận đến tương lai là chúng tôi thấy nao nao trong dạ. Con đường đep đẽ và nhiều gai góc. Chúng tôi có thể làm được gì chăng ?
Trích TÌNH NGƯỜI, trang 123, 124, 125.
Dường như tham vọng lớn lao nhất của vị tu sỹ này là luôn luôn muốn làm thế nào để đưa đạo phật trở về trong cuộc đời.
Như vậy, nghĩa là đối với Nhất Hạnh thì đạo Phật lúc ấy hiện đang ở bên ngoài cuộc đời! Đạo Phật không có trong cuộc đời của nhà tu Nhất Hạnh ! Bởi vì quan niệm theo “vọng thức phân biệt” như vậy, cho nên Nhất Hạnh buộc phải nỗ lực mang đạo Phật trở về với cuộc sống.
Và để được như thế, thì Nhất Hạnh phải để cho “lục căn lục trần vọng tác vô biên chi tội”, mà một trong vô biên tội chướng ấy là công việc hiện đại hóa Phật giáo! Hoặc : Cách tân đạo Phật !
Và trong chuyện ngắn “Chú Dương”, Nhất hạnh viết :
Trong lúc tôi viết bài này thì Chú Dương vẫn còn ở chùa, mạnh khỏe như một cây đại thọ, tuy rằng tuổi chú đã cao. Chú Dương thuộc về thế hệ của những người không phải bận tâm về vấn đề thời cuộc. Chú không phải thấy và nghe những điều mà chú Mãn và tôi phải thấy và nghe. Chúng tôi phải nghĩ đến những điều rắc rối như là vấn đề duy tâm đạo Phật, đem đạo Phật trở lại trong cuộc đời như thuở Lý Trần.
Chúng tôi phải nghĩ đến vấn đề học hỏi, thực tập, thi cử, giảng diễn và tổ chức lại giáo hội. Chúng tôi phải lo nhiều việc quá mà không biết có nên được việc gì không. Con đường của chúng tôi bị thực tại xã hội xâm chiếm quá nhiều và trong chúng tôi niềm thắc mắc chung của thời đại đã trở thành niềm thắc mắc riêng tư.
TÌNH NGƯỜI trang 110, 111.
Nhưng, đối với Nhất Hạnh thì đạo phật hiện đại hóa nghĩ là gì ?
Trong các tác phẩm “Đạo Phật Hiện Đại Hóa”, “Đạo Phật Đi Vào Cuộc Đời”, “Đạo Phật Ngày Nay”, Nhất Hạnh đã giải trình mọi “mục tiêu, phương hướng,hành động, nhiệm vụ” của mình rất rõ ràng, không ngoài 3 mục tiêu sau đây: Cách mạng giáo lý, cách mạng giáo sản, cách mạng giáo chế”.
Đây là bản sao chép sản phẩm của Thái Hư đại sư trong cuộc Duy Tân đạo Phật sau cách mạng Tân Hợi, tại Trung Quốc vào những năm của thập niên 1930,1940. Đương nhiên bản sao chép này được chế biến lại theo ngã chấp, kiến chấp cũng như phong cách và tham vọng Nhất Hạnh!
Ý đồ của Nhất Hạnh là đưa Phật giáo Việt Nam trở thành một tổ chức chặt chẽ như Giáo hội La mã. Phật giáo phải là quốc giáo như thời Lý Trần
Nghĩa là phải có một nền giáo dục Phật giáo với những trường học phật giáo, những bệnh viện phật giáo, những cơ sở từ thiện Phật giáo, những cơ sở kinh tai phât giáo, những nhà lãnh đạo chính trị xuất thân từ nhà chùa, Phật giáo phải có tiếng nói chủ đạo trong quốc hội và chính quyền, vân vân …
Lại nữa, Nhất Hạnh còn muốn sửa đổi phương thức tu tập bằng cách cải biên giáo lý Phật giáo mà Nhất Hạnh cho rằng “thiếu thực tế”, “quá lạc hậu”, “quá cũ rích”, không còn phù hợp trào lưu tiến bộ khoa học - hơn thế nữa, Nhất Hạnh còn phủ nhận những giá trị siêu hình, những đặc chất tín ngưỡng của Phật giáo và cả những yếu tố thần thoại rải rác xuất hiện trong kinh điển. (Điều này sẽ được chúng tôi trình bày trong một chương sau).
Như vậy, qua các tác phẩm chủ đạo của Nhất Hạnh, (như “Đạo Phật Hiện Đại Hóa”, “Đạo Phật Đi Vào Cuộc Đời”, “Đạo Phật Ngày Nay”) chúng ta thấy rõ nhà tu trẻ tuổi Nhất Hạnh luôn luôn nuôi dưỡng khát vọng thiết lập một giáo hội có giáo quyền độc tôn, (giáo chế chặt chẽ), mạnh mẽ, giàu sang (tích lũy và phân bố giáo sản một cách hợp lý) như giáo hội Công giáo La Mã.
Còn về giáo lý thì tất cả Phật tử Việt Nam chỉ học tập những sách vở kinh điển do Sư Ông sáng tác và chế biến mà thôi, bãi bỏ Hai Thời Công Phu của truyền thống Phật giáo mà Nhất Hạnh cho rằng đã lỗi thời.
Nhiều Phật tử dù là tu sỹ hay cư sỹ một khi nhìn vào những ngôi chùa thô lậu đang náu mình sau lũy tre làng, thấy các ông sư khoác y vàng bưng bình bát khất thực qua mấy ngả đường và lạc loài giữa dòng xe cộ đông đúc huyên náo, hoặc thấy quý vị thầy tu mặc chiếc nhật bình truyền thống trông có vẻ không phù hợp với thời đại tiên tiến văn minh này.
Rồi khi bước vào chùa, các Phật tử lại thấy chư sư tụng niệm ê a những bài kinh đã cũ với ngôn ngữ khó hiểu, bữa cơm chay nghèo nàn đạm bạc, pháp khí như chuông mõ, kinh điển bằng chữ Nho vân vân…có vẻ xa lạ với trào lưu văn há hiện đại.
Tất cả điều này đã dẫn đến một mặc cảm yếu kém, thua sút khi nhìn thấy tôn giáo bạn với nhà thờ nguy nga, tổ chức chặt chẽ, kỷ luật nghiêm minh. Các Cha Cố thì đi xe hơi đời mới bóng nhoáng, uy quyền thống trị của La Mã vừa gây ảnh hưởng trong giáo dân lại bành trướng mạnh mẽ ngoài thế tục, tràn lan khắp thế giới và gây áp lực trên nhiều chính quyền của nhiều quốc gia cho nên họ (những người Phật tử) không khỏi ước mơ thầm rằng “Giá như Phật giáo mình mà cũng có một giáo hội đầy đủ sức mạnh về tổ chức, kinh tế, chính trị như La Mã thì hạnh phúc biết bao nhiêu!”.
Bản chất con người là luôn luôn khao khát quyền lực.
Kẻ phàm tục thì thèm khát quyền lực kinh tế, hoặc sức mạnh đồng tiền. Kẻ học thức thì cực lực kiếm tìm và đạt cho kỳ được quyền lực chữ nghĩa. Kẻ làm quan thì vun vén quyền lực chính trị. Tu sỹ thì mơ ước quyền lực tôn giáo (giáo quyền). Bởi vì chỉ có quyền lực mới có thể thỏa mãn tất cả mọi tham vọng thầm kín của mình.
Nhưng ý tưởng “hiện đại hóa Phật giáo”, và tổ chức Phật giáo “trở thành một đoàn thể Tăng già đầy đủ uy quyền và hiệu quả về mọi mặt”…dường như cũng là khát khao chung của những người Phật tử không hiểu chi mấy về đạo Phật và chẳng tin tưởng gì về con đường giải thoát của đức Phật Thích Ca cả!
(Xin lỗi quý vị, và hãy khoan dung cho chúng tôi về quan điểm quá ư ngông cuồng này!).
Trong cuốn Giảng Giải Kim Cương kinh, tác giả Rajneesh Osho, một triết gia Ấn Độ đã nhận xét:
“Đạo Phật không phải là một tôn giáo như các tôn giáo khác hiện đang tồn tại trên thế giới này. Thực sự đạo Phật là mọt tôn giáo phi- tôn – giáo. Và đây là điểm độc đáo tuyệt vời nhất của Phật giáo”.
(Xin đọc Kim Cương kinh giảng giải, của tác giả OSHO,
bản dịch của giáo sư Ngô Trung Việt).
Quý vị thử nghĩ xem: một tôn giáo chủ trương vô ngã, giải thoát con người toàn triệt, giúp con người đạt đến chỗ trí tuệ vô ngại và từ bi tuyệt đối, thực chứng niết bàn,… thì làm sao có thể thiết lập một đoàn thể tăng-già có giáo quyền như La Mã? Chỉ có những người không tin vào năng lực vô biên của Chân lý thì mới đặt vấn đề xây dựng Phật giáo trở thành một giáo hội hung mạnh như giáo hội La Mã hoặc giáo hội Hồi giáo.
Những ưu tư của những người như tăng sỹ Nhất Hạnh chỉ là những ưu tư của kẻ chưa thấu triệt nguyên lý nhân quả và đạo lý duyên khởi.
Về vấn đề tổ chức và cơ cấu lại Giáo hội Phật giáo Việt Nam, cư sỹ Cao Huy Thuần cũng tỏ ra biểu đồng tình với quan điểm: Giáo hội Phật giáo không phải là giáo hội La Mã. Ở đây không có khái niệm “quyền”. Không ai có quyền trên ai, và cũng không chức vị nào mang lại quyền hành.
Đi tu là đi đến cửa Phật, chứ không phải đi ăn mày cửa quan. Và đi đến gần Phật thì ai có chân là đi được, đôi chân không có tính nam nữ…(Trích bài viết SƯ BÀ đăng trong Tập Kỷ Yếu Tang Lễ Ni Trưởng Thích Nữ Diệu Không, NXB Tôn Giáo 1999. Sau đó được in lại trong tuyển tập NẮNG VÀ HOA, NXB. Tôn giáo, 2003)
Như vậy, giáo hội Phật giáo Việt Nam không ba giờ quan tâm tới việc phát triển để trở thành một guồng máy thống trị như giáo hội La- mã chẳng hạn. Bởi vì Giáo hội Phật giáo Việt Nam chẳng cần đến mọt thứ gọi là “thế quyền”. Không bao giờ! Nếu có người nào mơ tưởng tới một giáo hội có quyền lực, thì đó là ý tưởng cá nhân rất riêng tư của họ.
Chúng ta có thể đọc đoạn văn sau đây của triết gia Phạm Công Thiện, khi bàn về hướng đi của Phật giáo Việt Nam:
Hướng đi của Phật giáo Việt Nam là: Đi Tới Giác ngộ, đi tới sự Tỉnh Thức. Mà Giác ngộ Tỉnh thức có nghĩa là thể hiện thực hiện một Sự Quyết Định Vĩ Đại nhất của kiếp người, một đại thệ nguyện cho tất cả chúng sanh, trong bất cứ mọi trường hợp nghịch cảnh lớn lao nhất vẫn như như bất động, với lòng từ bi vô biên và với trí Bát- nhã vô hạn, tự giải thoát mình và giải thoát tất cả chúng sanh, bởi vì mình là chúng sanh. Giác ngộ, vì lợi ích cho tất cả chúng sanh. Đó là Phát Bồ đề Tâm.
Xã hội Tây phương hiện đang rơi vào những cơn khủng hoảng ở đủ mọi bình diện, giữa các trào lưu tư tưởng triết lý…Hướng đi của Phật giáo Việt Nam là Quyết Định Đi Tới Giác Ngộ, Quyết Định Đi Tới Nhất Thiết Chủng Trí. (…)
(Trích Tham Luận đọc vào ngày 23/12/1984
tại Thiền viện Quốc tế vào dịp Đại Hội Khoáng Đại kỳ IV
của Tổng hội PG Việt Nam tại Hoa Kỳ, tổ chức tại Los Angeles, California, USA)
Đạo Phật tồn tại được lâu dài hay không, và chuyển hoá được tâm linh của nhân loại hay không…tất cả đều phụ thuộc vào yếu tố nhân duyên. (Đức Phật chỉ độ những người hữu duyên). Không bất cứ ai có thể đi ngược lại bánh xe nhân duyên và nghiệp lực. Đạo Phật xuất hiện tại thế gian này cũng chỉ do nhân duyên của chúng sanh quyết định, cho đến khi nào nhân duyên chấm dứt thì đạo Phật buộc phải biến mất. Thế thôi!
Những người Phật tử chân chánh thì phải nỗ lực chuyên cần tu tập một pháp môn nào đó, để có thể sớm giác ngộ, giải thoát và sau đó có thể giúp ích cho những người khác bằng chính năng lực giác ngộ, năng lực giải thoát của mình. Chứ không phải băng hăng bó hó vì tranh đấu hết mình vì cái công việc rất ư trái ngược với luật tắc Nhân Quả, như là: củng cố quyền uy tập thể, hiện đại hóa Phật giáo cho thích ứng với thế tục, bành trướng những công tác phụng sự xã hội, phát huy vai trò và sức mạnh của tỏ chức giáo hội vân vân…

II. - NHỮNG SAI LẦM NGHIÊM TRỌNG CỦA CUỐN SÁCH “ĐẠO PHẬT HIỆN ĐẠI HÓA”

Ngay từ đầu cuốn sách, Nhất Hạnh đã ngụy biện như sau: “Hiện đại hóa đạo Phật không có nghĩa là thế tục hóa đạo Phật”.
Đây là một ý tưởng tráo trở, mang tính cách chủ quan và hàm hồ. Vì sao? Ngay từ những hiện đại hóa hoặc không hiện đại hóa chỉ xuất hiện trong phạm trù thế tục mà thôi.
Khi chúng ta bị rơi vào phạm trù thế tục, thì mới xuất hiện hai ý tưởng hiện đại hóa Phật giáo hoặc không hiện đại hóa Phật giáo.
Khi chúng ta bị nô lệ vào tầm nhìn thế tục, thì mới phát sinh ra hai vấn đề: Có nên chăng hiện đại hóa Phật giáo hay là không hiện đại hóa Phật giáo?
Đối với những người tu chứng thâm hậu, thì họ sẽ hiểu đây là vấn đề giả huyễn, không thực có, đây chỉ là sản phẩm của vọng thức phân biệt.
Một người theo đạo sư Maharichi để tu học. Thời gian sau, ông ta thưa:
- Thưa đạo sư! Con thấy dân chúng xung quanh có cuộc sống nghèo nàn, đau khổ, đất nước lạc hậu, tương lai bấp bênh, không có một ai tìm ra ý nghĩa hạnh phúc cả. Con muốn làm một cái gì đó cho chúng sanh và đồng bào, anh em, bà con… Vậy thì con phải làm thế nào?
Đạo sư cười lớn tiếng:
- Con chớ băn khoăn như vậy, vô ích. Việc trước mắt là con phải tu tập để chứng ngộ, khi chứng ngộ rồi con có đủ trí tuệ để biết cái nào nên làm, việc gì không nên làm. Chứng ngộ trước đã! Trí tuệ trước đã!. Một khi xuất hiện ánh sáng trí tuệ thì tất cả vấn đề ấy sẽ không còn tồn tại nữa!
Cái ý tưởng “phải làm một cái gì đó cho chúng sanh” thật ra chỉ là “vọng thức phân biệt” của một người không tu chứng hoặc thiếu tu chứng.
Nếu có tu chứng thực sự, thì họ không bao giờ đặt ra vấn đề kia! Nếu có tu chứng thực sự thì họ sẽ tự biết nên làm gì và làm như thế nào!
Bao giờ chúng ta còn đặt vấn dề hiện đại hóa, cải cách, vận động, tổ chức, cơ cấu, sửa đổi, duy tân, chỉnh lý, hiệu quả, hiệu năng, thiết lập, xây dựng, hoàn bị, dự án, hội thảo, thống kê… bày những trò ma mãnh dưới sự giật dây của vọng thức phân biệt, thì điều này chứng tỏ chúng ta còn chưa hiểu chi về giáo lý nhà Phật, và chúng ta chưa thực sự tu tập gì cả.
Bởi vì cái nhìn của Nhất Hạnh đã bị lụy vào phạm trù tư tưởng thế gian, tức là vọng thức phân biệt, cho nên Nhất Hạnh mới đặt vấn đề nên hiện đại hóa Phật giáo hay là không nên. Nếu Nhất Hạnh có chút trí tuệ do công phu tu chứng thực sự mang lại, thì Nhất Hạnh hiểu mình phải làm gì và làm như thế nào!
Qua trang 5, Nhất Hạnh viết:
Mà nếu muốn đạo Phật là đạo Phật thì phải để đạo Phật phải được thường xuyên hiện đại hóa – hiện đại hóa để bản chất đạo Phật được duy trì, phát triển, lưu lộ và thấm nhuần vào mọi hình thái của cuộc sống.
Chúng tôi xin mượn lời dạy của Thượng tọa Thích Minh Châu để trả lời cho chủ trương của Nhất Hạnh:
“ Từ trên hai nghìn năm nay, đạo Phật đã được khai triển và lưu chuyển khắp mọi chân trời, dựa vào kinh nghiệm tối thượng của một con người dưới cội Bồ Đề một người đã thấy được sự thật. Thấy được sự thật tức là hiểu biết Như Thật (Yatha - Bhùtam); hiểu biết như thật là hiểu biết đúng y thực tại (yathatattvam) đúng theo sự kiện thiết thực (yathartha) nghĩa là nhận thức chân tín của mọi sự vật. Vì lẽ đó, đạo Phật còn có tên gọi là “đạo Như Thật”, “yathabutammarga” (kinh Bát nhã trang 15).
Tất cả nhu cầu văn minh tân tiến hiện đại, phải thích ứng với đạo Phật, chứ không phải đạo Phật thích ứng với những thứ đấy. Tất cả mọi sự phải thích ứng với sự thật, chứ sự thật không phải thích ứng với cái gì cả. Thích ứng với sự thật và hiểu biết đúng theo sự thật, nghĩa là hiểu biết như thật, mà con đường hiểu biết như thật gọi là “Như Thật đạo (yatha – bhutam marga) tức là một tên khác của đạo Phật”.
(Thích Minh Châu, trích bài NỀN TẢNG CỦA MỌI KHOA HỌC VÀ MỌI TRIẾT HỌC NHÂN LOẠI, trang 165 -166, tác phẩm “Trước sự nô lệ của con người”).
Thưa quý vị, ngay từ nguyên tắc cơ bản của đạo Phật, ngay từ nền tảng chánh kiến của Như Thật đạo, chúng ta đã thấy Nhất Hạnh hoàn toàn nhầm lẫn.
Khi Nhất Hạnh đã sai lạc trong cách đặt vấn đề, thì cuốn sách “Đạo Phật hiện đại hóa” cũng chẳng còn mấy giá trị để bình luận nữa. Do đó, chúng tôi sẽ đưa ra vài nhận định biểu trưng, để mọi người có cái nhìn nhất quán về công cuộc hiện đại hóa đạo Phật đã xôn xao dư luận một thời.
Qua trang 50, Nhất Hạnh viết:
Có nhiều chùa mà trong đó, chúng tăng phải tụng kinh một ngày ba thời, mỗi thời không dưới một tiếng đồng hồ. Tụng kinh ra tiếng như thế lâu ngày rất có hại cho sức khỏe. Nhiều vị dù tuổi chưa đến 30, đã phải ra đơn nằm thở dốc, sau khi tụng xong một thời kinh sáng hay đi xong một thời tịnh độ mà kết quả của các thời tụng như thế chưa chắc đã bằng nửa giờ tịnh niệm tham thiền.
Nhất Hạnh đã nhận định sai lầm:
Thứ nhất: Tôn giáo là rung động tâm linh tối cao mà hành trì một pháp môn nào đó, nghĩa là tạo điều kiện vượt trội cần thiết để phát triển cũng như tiếp nhận niềm dung động tâm linh ấy trong chủ đích chuyển hóa kiếp sống con người.
Cho nên khi một người nào cảm thấy “mỏi mệt, hao hơi tổn khí” trong khi tụng kinh niệm phật, thì điều này chứng tỏ rằng, người đó thiếu cảm hứng tu tập, hoặc không muốn tu tập theo pháp môn ấy.
Mời quý vị thử một lần tham dự đạo tràng Phật thất của chùa Hoằng Pháp, Hóc Môn, quý vị sẽ thấy ở đây, người ta niệm Phật lớn tiếng cả tuần lễ mà chẳng thấy có gì mệt mỏi hoặc hao hơi tổn khí cả, tại sao?
Bởi vì người ta đã cảm nhận được niềm hạnh phúc siêu hình vô biên trong công việc thực hành niệm Phật và tiếp nhận được năng lực tâm linh không thể nghĩ bàn từ hồng danh Nam mô A Di Đà Phật. Những người như thế thì sẽ đạt được niềm hoan lạc vô biên, làm sao mà cảm thấy mỏi mệt, chán nản, hay là “hao hơi tổn khí”? Dĩ nhiên có hao tổn chút hơi sức, nhưng làm sao so sánh được niềm hưng phấn, và hạnh phúc do những năng lực siêu hình mà họ vừa đón nhận?
Trong trường hợp một vị chưa tới ba mươi tuổi mà phải ra đơn để nằm lăn sau một thời khóa tụng kinh niệm Phật, đơn giản bởi vì vị ấy chỉ là một kẻ biếng lười tu tập, hoặc không thích hợp với công việc tụng kinh mà do bị ép buộc tu hành cho nên mới sanh ra hậu quả chán nản, mỏi mệt như vậy. Tu hành chỉ là một công việc tình nguyện, tự nguyện, được phát sanh do lòng yêu thích cũng như rung động tâm linh của từng cá nhân.
Vả lại, chư vị xuất gia mà không lấy hai thời khóa công phu tụng kinh niệm Phật làm “công việc thường ngày ở chùa” thì họ làm chi cho hết thời giờ?
Thứ hai: Tuy xuất thân từ một ngôi chùa Thiền Tịnh song tu, nhưng Nhất Hạnh vẫn mang kiếp chấp vô cùng ấu trĩ về những thời khóa tu tập của môn phái mình. Từ lâu, truyền thống tham thiền đã tự nhiên nhường bước cho công việc tụng kinh niệm Phật. Đây là sự kiện tất yếu của lịch sử Phật giáo Việt Nam cũng như Phật giáo Trung Quốc.
Lý do:

a) - Pháp tu nào cũng do đức Phật chỉ dạy, tất cả pháp môn đều bình đẳng, hiệu quả mang lại được nhiều hay ít, ấy là do công phu hành trì của chúng ta sâu hay cạn. Tất cả pháp môn đều đều đặt nền tảng trên thiền định dẫu là tụng kinh hay niệm Phật hay tham thiền.
Đại sư Chang Cheng Chi (Trương Trừng Cơ) nói trong tác phẩm Thiền Đạo Tu Tập như sau: Tụng kinh hay niệm Phật là một loại thiền định dễ dãi, nhưng an toàn, phù hợp với nhiều giới Phật tử”

b) - Lại nữa, bất cứ Phật tử nào cũng biết rằng, pháp môn tham thiền dù là Tứ Niệm Xứ, hay Tứ Thiền Bát định, Ngũ Đình Tâm Quán hết thảy đều phải có minh sư dẫn dắt, không thể tự tu tập mà có thể tự chứng đắc được.
Hơn nữa, thời đại ngày nay, tìm đâu ra minh sư ?
Chúng ta hãy mở mắt ra xem: bây giờ xuất hiện toàn là những Thiền sư Tự phong, chứ có vị nào là được ấm chứng từ Thầy tổ đâu? Lỡ gặp phải “minh sư dzổm” như chư vị thiền sư tự phong ở Việt Nam thì chẳng chóng thì chầy, Pháp thân Tuệ mãn của mình sẽ bị lâm nguy, không biết rơi vào hố thẳm tuyệt vọng nào đây?
Chính Nhất Hạnh cũng đã thú nhận như thế này:
“Gặp được minh sư là rất có thiện duyên, và là một trường hợp “ít có”… Thường thường các vị hữu danh rất có thể là vô thực, mà các vị chân tu thì lại hay vô danh”. (Đạo Phật hiện đại hóa, trang 58).
Hoặc nếu cung thỉnh được minh sư, nhưng chúng ta có đủ trình độ, căn cơ theo Ngài mà hành trì, thiền quán hoặc tham cứu công án, thoại đầu hay chăng?
Chúng tôi thấy nhiều vị xuất gia ngay cả ngồi kiết già cũng không thể ngồi vững được, hoặc gắng gượng mà ngồi nhưng lưng cong như con tôm luộc, huống hồ nói chi tới việc “hít vào tâm tĩnh lặng”, rồi quán tưởng, tham cứu công án, đốn ngộ…?
Cho nên chúng ta không thể dựa trên cơ sở nào, đứng ở bình diện nào để tuyên bố một cách cố chấp rằng: Pháp môn này có nhiều hiệu quả hơn Pháp môn kia!
Nếu đứng ở bình diện khoa học thì lại càng… sai bét, bởi vì còn lâu, rất lâu, khoa học mới bắt kịp Tâm linh!
Nhất là, chúng tôi thành thật thưa rằng, trong cuộc sống hiện nay, vị xuất gia nào còn lưu luyến hai thời công phu tụng kinh niệm phật và… đừng lén lút lấy vợ, thì vị ấy đã trưởng thành một người mẫu mực vĩ đại tron giới tu hành rồi, còn nói chi tới tham thiền, quán tưởng, phát tuệ, đối ngộ!
Qua trang 72, Nhất Hạnh viết về Quỹ cúng dường tập thể dưới sự quản lý của Giáo hội:
Những vị hoạt động trong các dòng tiếp hiện sẽ trở nên công chức của Giáo hội và được bảo đảm về vấn đề lương hướng. Cố nhiên là có nhiều dòng tu như thế, như dòng dạy học, dòng chuyên lo về y tế, dòng chuyên lo về nghi lễ,. . . Ngân quỹ của giáo hội sẽ phải đài thọ cho tất cả các vị ấy, và do đó quỹ cúng dường tập thể sẽ được sáp nhập vào Quỹ kinh tài của Giáo hội. Chúng tôi đề nghị một dòng tu chuyên lo về việc kinh tài cho Giáo hội để có thể cung cấp cho các ngành hoạt động trong giáo hội, bởi vì không thể nào Giáo hội có thể nương tựa hoàn toàn vào Quỹ đóng góp, cúng dường của Phật tử tín đồ.
Một dự án sáng tạo như vậy, không phải là sai lầm, mà ngược lại, thật là vô cùng tuyệt vời, tân kỳ, độc đáo nhưng… chỉ là kế hoạch không tưởng rất khó thực hiện thế giới ta – bà này. Giả sử, nếu thực hiện được thì Nhất Hạnh đã biến Giáo hội Phật giáo trở thành La Mã thứ 2. Một guồng máy giáo hội vững mạnh sẽ giết chết những gì cao đẹp vốn có của đạo Phật, bởi vì đạo Phật không phải là một tôn giáo như các tôn giáo khác hiện tồn tại trên thế giới! Sự tồn tại của tổ chức giáo hội vô cùng lỏng lẻo.
Đạo Phật có tổ chức Giáo hội vô cùng lỏng lẻo, đây là khuyết điểm to lớn nhất, đồng thời cũng là ưu điểm siêu việt nhất! (Nghịch lý quá nhỉ)
Nhất Hạnh cũng chắc thừa hiểu rằng, chúng ta tới thế gian này để thọ nghiệp, và tất cả các người khác cũng như thế, cũng đều chen chúc lặn hụp trong cái cọng nghiệp với chúng ta. Sáng tạo được những ý tưởng Hiện đại hóa Phật giáo như vậy, quả là hay ho, nhưng làm sao để thực hiện chúng?
Và nếu thực hiện được thì chúng có lợi ích gì cho công việc chuyển hóa bản thân và người khác? Khi ấy, đạo Phật có còn là đạo Phật nữa chăng? Ai dám bảo đảm cho việc này.
Công bằng mà nói, tất cả các trăn trở của Nhất Hạnh thật ra cũng tương tự như những ưu tư của Bồ Tát Pháp Tạng ngày xưa, được trình bày trong bản kinh Vô lượng thọ.
Ngày xưa, lâu lắm rồi dưới pháp tòa của Thế tự tại vương Như Lai, Bồ Tát Pháp tạng vừa chướng ngộ, nhìn thế gian đau khổ, sinh linh mãi chìm trôi trong đêm tối vô vọng của tham, giận, mê, si…, lại không thể vạch con đường thoát ra khỏi hầm hồ sanh già, bệnh chết. Ngài liền tư duy để tìm phương thuốc cứu độ.
Bởi vì Ngài đã chứng ngộ cho nên Ngài đã không có vọng thức phân biệt để chạy chọt hiện đại hóa Phật giáo hoặc cách tân đạo Phật cho phù hợp với rừng rộng kiến chấp của chúng sanh đương thời. Ngài cũng không thể sử dụng thần thông và đạo lực của mình để biến đổi y báo của chúng sanh Ta bà, bởi vì Ngài thấu triệt rằng, một khi chánh báo kém cỏi và trơ lì như vậy, nếu cứ lo toán phải biến hoàn cảnh và hiện trạng sinh hoạt nhân gian thì đây chỉ là công việc vô ích, không thể thực hiện được. (Chẳng khác chi vuốt đuôi chó, nhạ ngữ minh triết của Ấn độ).
Ngài liền phát ra 48 lời Thệ Nguyện vĩ đại, còn gọi Là Bổn Nguyện Nguyên Sơ để kiến lập một thế giới an lành cho chúng sanh về đó tụ tập, cho đến khi chứng ngộ và phát tâm bồ tát đi khắp mười phương cứu độ tất cả chúng sanh khác. Công việc này giống như công việc chuyển hóa gạch vụn trở thành vàng ròng, nhờ vào năng lực của Bổn Nguyện Nguyên Sơ.
Trong tác phẩm “Sông Lửa Sông Nước”, bản dịch của An Cư, tiến sỹ Taitetsu Unno viết:
Dù chiều sâu và viễn cảnh của sự vận hành Bổn Nguyện Nguyên Sơ thì vượt quá trí tưởng tượng của chúng ta, nó đi đến chúng ta qua danh hiệu Nam mô A Di Đà Phật.
Như vậy, bất kỳ ai, bất kỳ nơi đâu, bất kỳ thời gian nào cũng có thể ngâm nga Danh hiệu và thức dậy với lợi lạc vô biên của nó.
Niềm tin vào 48 lời Thệ Nguyện vĩ đại, được phát triển thành việc xưng niệm Nam mô A Di Đà Phật của pháp môn tinh độ. Đây là phong cách tu hành phổ biến tại Việt Nam. Và chùa Từ Hiếu của xứ Huế cũng không phải là ngoại lệ.
Bởi vì tâm hồn và đầu óc bị vướng phải cạm bẫy của triết học Tây Phương, mà Nhất Hạnh bỏ quên niềm tin tịnh độtruyền thống rồi chạy theo quan điểm Tây học để hì hục hiện đại hóa đạo Phật uyên nguyên! (Bùi Giáng nhận xét).

III- CHÁNH KIẾN CỦA CAO TĂNG VIỆT NAM

Những bậc tôn túc thiền đức tại Việt Nam luôn nắm vững những nguyên tắc cơ bản Phật học, đều tỏ ra không mấy mặn nồng với chủ trương “Hiện đại hóa đạo Phật” của Nhất Hạnh. Quý vị này xem việc ấy như là trò trẻ con, tuy khoa trương ra vẻ rộn ràng, huyên náo nhưng không bao giờ mang lại kết quả nào khả dĩ cho quần chúng Phật tử và cả đạo Phật nữa. Nhưng ai nấy đều “im hơi lặng tiếng” bởi vì bài bác thì chẳng có gì hay ho, mà vỗ tay thì cũng chẳng xứng đáng chút nào.
Thỉnh thoảng, trong các bài viết hoặc bài giảng, chư vị tôn túc ấy cũng khéo léo trình bày chánh kiến của mình và quan điểm trí tuệ của đạo Phật với lời lẽ ôn tồn, khiêm cung và kín đáo, không bao giờ nêu đích danh Nhất Hạnh và không bao giờ thẳng thắn chỉ trích cái gọi là “tác giả của đạo Phật hiện đại hóa kia”.
Nhưng rồi ra, chư vị tôn túc trong giới Phật học không thể không trình bày quan điểm “trung đạo” của mình trong các đại hội Phật giáo, mục đích là hướng dẫn chánh kiến cho quần chúng Phật tử. Bởi vì, bổn phận của các nhà lãnh đạo Phật giáo là gì, nếu không phải là hướng dẫn chánh kiến và làm mẫu mực tu học cho tất cả chúng sanh?
Chúng ta thử đọc lại những nhận xét công khai, vô cùng sáng suốt của Thượng tọa Thích Minh Châu sau đây trong Đại hội hoằng pháp kỳ III (được tổ chức tại Ấn Quang từ ngày 4/5/1969 đến 9/5/1969).
“Có một điều đáng buồn hiện nay là trong thế giới Phật giáo thường hay có hiện tượng này: hiện tượng muốn “hiện đại hóa Phật giáo”, hay muốn “mặc một chiếc áo thời đại cho Phật giáo”, hay nói gọn hơn là “muốn thích ứng Phật giáo với thế kỷ 20”. Hiện tượng này đủ nói lên sự xuyên tạc Phật giáo ngay trong tâm thức của người Phật tử đầy thiện chí và đầy lòng thuần thành nhất. Tất cả những việc làm này đều xuất phát từ sự sợ hãi trước sự tấn công ồ ạt của văn minh thời đại, đồng thời xuất phát từ sự nhận thức Phật giáo như là một thành phần văn hóa, nghĩa là bị nô lệ vào tri thức Tây phương trong việc định nghĩa văn hóa như là tiến trình lý trí hóa kinh nghiệm (rationnalisation de l’expérience)”.
(Trích bài thuyết trình “Đạo Phật có thể làm gì cho Việt Nam và nhân loại?” trong tập Kỷ yếu Đại hội Hoằng Pháp kỳ III (4/5/1969 đến 9/5/1969), tại Ấn Quang).
Trong cuốn sách “Trước sự nô lệ của con người”, được xem như là quan điểm chính thống của Phật giáo vừa là kim chỉ nam cho tất cả sinh viên Viện đại học Vạn Hạnh lúc bấy giờ, T. T. Thích Minh Châu đã viết về vấn đề hiện đại hóa Phật giáo hoặc canh tân Phật giáo như sau:
“Một điều đáng buồn là hiện nay chúng tôi nhận thấy quá nhiều người đã hiểu sai đạo Phật và ngay đến những hạng người tự nhận là “Phật tử”, tự nhận là “tu sỹ Phật giáo”, ngay cả đến những hạng người ấy cũng vô tình hay cố ý xuyên tạc đạo Phật do sự cuồng tín mê muội của họ; họ đã tìm hết cách để tán dương, bênh vực đạo Phật, coi đạo Phật như một sở hữu riêng tư mà họ cần phải độc chiếm cho mình. Một người Phật tử chân chính là một kẻ không cảm thấy sung sướng vì người ta khen ngợi đạo Phật mà cũng không cảm thấy đau tủi, tự ái vì người ta đả kích đạo Phật, như chúng ta đã thấy đức Phật dạy trong kinh Phạm Võng (Brahmajàlasutta).
Ngoài ra ngày nay, chúng ta thấy một hiện tượng lan tràn trong những quốc gia Phật giáo là một số lớn những nhà trí thức Phật giáo vì có nhiều phức cảm tự ti (hoặc tự tôn), vì có nhiều mặc cảm trước sự tiến bộ vượt bực của khoa học hoặc trước những chủ nghĩa chính trị uy thế, hoặc trước những giá trị tối cao của thời đại, họ liền cảm thấy lo ngại sợ hãi và khuất lấp mối sợ hãi ấy bằng cách “hiện đại hóa” đạo Phật hoặc đưa đạo Phật “đi vào cuộc đời”, họ làm như đạo Phật là cái gì đã cũ quá rồi, đã mất liên hệ với cuộc đời.
Thực sự thì, chính những nhận thức của họ về đạo Phật đã mất liên hệ với cuộc đời: họ đã lầm lẫn nhận thức của họ về đạo Phật với thực tại của đạo Phật, họ đã lầm lẫn thế giới biểu tượng trong trí họ với thực tại của đạo Phật, họ cho rằng không có đạo Phật nào là đạo Phật tại tính, gọi là “Buddhism in itself” mà chỉ có “đạo Phật của riêng tôi”, gọi là “Buddhism for itself” (hay “for myself” thì cũng thế).
Rồi cũng có hạng người khác chủ trương ngược lại rằng, không có thứ “Buddhism for itself” mà chỉ có thứ “Buddhism in itself”. Cả hai thái độ “in itself” và “for itself” ấy đều sai lầm vì Phật giáo không nằm ở trong những nhận thức nhị nguyên như vậy, chữ Phạn gọi là những “anta”, tức “cực đoan quan điểm, nhận thức của triết lý”.
Lại có một hạng người khác chủ trương là Phật giáo “rất đúng với khoa học”, rồi họ cố gắng chứng minh thuyết này, thuyết kia trong đạo Phật là hợp với thuyết khoa học hiện đại, vân vân, đang khi đó nếu họ có một kiến thức khá cao về khoa học hiện đại thì họ sẽ thấy rằng những khoa học tối tân nhất (như vật lý học và toán học) đang rơi vào chỗ bế tắc và đang bị kẹt vào những mâu thuẫn không lối thoát (như thuyết Priciple of Indeterminacy của nhà thông thái Heisenberg, như “Priciple of Comlementarrity” của nhà thông thái Bohr, như thuyết toán học mới của Godel, vân vân,…)”.
(Trích bài NỀN TẢNG CỦA MỌI KHOA HỌC VÀ MỌI TRIẾT HỌC NHÂN LOẠI).
Cuốn sách “Trước sự nô lệ của con người” được xuất bản năm 1969 và được tái bản vào năm 1970, thượng tọa Thích Minh Châu đã khai thị cho tất cả Phật tử thấy được những sai lầm, ấu trĩ của công việc hiện đại hóa Phật giáo. Vấn đề này chỉ đáng đặt ra cho những người không chịu tu tập theo đạo Phật và chưa hề tâm huyết với lời dạy không bao giờ là xưa cũ của đức Phật Thích Ca. Bởi vì, thiếu tu tập thực sự và thiếu chiêm nghiệm, nghiên cứu thấu đáo lời dạy của đức Phật cho nên nhiều Phật tử trong đó có Nhất Hạnh đã choáng ngợp và sợ hãi trước những tiến bộ của khoa học kỹ thuật, trước những hào nhoáng của nền văn minh hủy diệt của tây Phương, mà bỏ quên những giá trị vô giá của Như Thật Đạo.

IV - NHẤT HẠNH VÀ CANH TÂN TÔN GIÁO

Đối với Phật giáo, vấn đề “Canh tân tôn giáo”, được nhìn nhận dưới cái nhìn của ánh sáng Như Thật Đạo ra sao? Chúng ta thử đọc lại một đoạn trong cuốn Trước Sự Nô Lệ của con người, do Thượng tọa Thích Minh Châu viết về kinh nghiệm tôn giáo nói chung như sau:
… “Tu sỹ” có nghĩa là “con người tôn giáo” (homo religiosus), con người sống tôn giáo của đời mình. Bất cứ một “con người tôn giáo” nào cũng đều là “tu sỹ”. Dù người ấy có mặc áo tu hay không, “chiếc áo không làm thành thầy tu”, câu này có nghĩa là “con người tôn giáo” trước hết phải là con người có kinh nghiệm tôn giáo.
“Canh tân tôn giáo” có nghĩa là gì?
Theo nghĩa thông thường của người đời, “canh tân tôn giáo” có nghĩa là “biến đổi tôn giáo cũ cho được thích nghi với thời đại hiện nay”. Như thế, chúng ta có thể giải minh đại khái như sau:
1. - Mỗi một tôn giáo đều xuất hiện vào một thời đại nhất định nào đó của lịch sử.
2. - Thời hiện đại có nhiều đổi thay mới, khác hẳn thời tôn giáo xuất hiện.
3. - Phải canh tân tôn giáo, nghĩa là đổi thay lại mới tôn giáo cũ được thích ứng, thích nghi với những vấn đề mới của thời hiện đại.
Chúng tôi thấy rằng, quan niệm vừa trình bày là mảnh đất chung để mỗi vị đại diện tôn giáo nói lên sự thích nghi của tôn giáo mình đối với thời đại mới này. Nhưng có điều mà không biết chúng ta có lưu ý hay không, đó là điều chúng tôi muốn trình bày sau đây:
- Thời đại mới phải thích nghi với tôn giáo, hay tôn giáo phải thích nghi với thời đại mới ?
Hay khác hơn:
“Chân lý phải thích nghi với lịch sử, hay lịch sử phải thích nghi với chân lý?”
Chúng tôi xin thắt chặt câu hỏi lại cho chặt chẽ hơn nữa :
Linh thể (le sacré) là lệ thuộc, nô lệ, thuận theo tục thể (le profane) hay tục thể là nô lệ chủ linh thể ?
Chúng tôi xin đặt lại câu hỏi một cách nghiêm trọng hơn nữa:
Cái nào quan trọng và chính yếu? Linh thể hay tục thể? Chúng ta phải thích nghi với linh thể (le sacré) hay phải thích nghi với tục thể (le profane)?
Có hai tư thế hiện hữư ở thế gian này: Thứ nhất: kinh nghiệm linh thiêng. Thứ hai: kinh nghiệm phàm tục. Chúng tôi nuốn xác định lại câu hỏi:
- Kinh nghiệm linh thiêng có cần phải thích nghi với kinh nghiệm phàm tục hay không?
Nói một cách cụ thể hơn:
- Con người, một sinh thể linh thiêng có cần phải thích nghi với biến trình phàm tục hóa (Processus de desacralisation) không?
Muốn hiểu hết nội dung của câu hỏi vừa nêu, chúng tôi xin trình bày ý nghĩa của “sự canh tân tôn giáo” trong ý nghĩa thực thụ của hai chữ “tôn giáo” dưới những hình thể tục hóa của thời hiện đại này.
Tôn giáo là kinh nghiệm về linh thể (le sacré), do đó, không có “mới” và “cũ” là những chữ xuất phát từ hậu quả của tiến trình tục hóa thế gian. Ngay đến chữ “canh tân” cũng lệ thuộc vào sự tục hóa (désảcalíation).
Thế giới ngày nay bị khủng hoảng, những giá trị đổ vỡ, những ý thức hệ giao tranh với nhau, nạn nghèo đói, chiến tranh, nô lệ vào máy móc, nô lệ vào vật chất, tất cả mọi sự bi đát thê thảm này đều xuất phát từ kết quả của tiến trình tục hóa đời sống con người – vì thế, “canh tân tôn giáo” không có nghĩa là “Sửa đổi tôn gaío cho được thích ứng với tiến trình tục hóa con người”, mà phải trả tôn giáo về vị trí thiêng liêng của hai chữ “tôn giáo”.
Do đó, canh tân tôn giáo trước hết phải hiểu là “canh tân sự tục hóa của tôn giáo”. Có như thế, chúng ta mới có thể “canh tân thời đại, để làm sao cho sự hiển linh của đời sống con người được xuất hiện ở thế gian đen tối này”. (…)
(Trích chương “SỐNG VẪN LÀ ĐIỀU LINH THIÊNG. Trong tác phẩm “Trước sự nô lệ của con người” Trang 144 dến 156, do Viện đại học Vạn Hạnh xuất bản năm 1970).
Đoạn trích dẫn nêu trên đã giúp chúng ta thấy được chánh kiến đích thực mà một người Phật tử cần có và bắt buộc phải có, nếu không muốn đánh mất niềm tin vào con đường mà đức Phật chỉ dạy. Chúng tôi xin miễn bình luận thêm.
V - THẤT BẠI CỦA NHẤT HẠNH TRONG VIỆC HIỆN ĐẠI HÓA PHẬT GIÁO
Trong cuốn Nẻo Về Của Ý, Nhất Hạnh viết:
“Năm 1955, tôi được Tổng hội Phật giáo Việt Nam giao làm chủ bút tờ Phật giáo Việt Nam. Lúc đó, tôi đã có dịp gây ý thức về một nền Phật giáo nhân bản và dân tộc. Tôi cũng đã thấy rõ tính cách rời rạc phân tán của tổ chức đạo Phật nên đã cố gắng viết tất cả nững gì tôi nghĩ về một nền Phật giáo thống nhất và toàn vẹn. Tôi chắc Nguyên Hưng biết rõ những nguyên do gần xa trong ngoài của sự rời rạc. Hơn hai năm sau, tờ báo bị đình bản. Lý do là hết tiền. Nhưng kỳ thực, đó là vì các vị lãnh đạo Phật giáo miền Trung và miền Nam không chịu đựng được những loạt bài nói về vấn đề thống nhất thực sự. Trong một buổi họp, họ đã lấy cớ hết tiền để kết liễu sinh mệnh tờ báo. Họ có nói: “Ai lại tờ báo của Tổng hội mà lại đi dạy Tổng hội về vấn đề thống nhất bao giờ?”.
Thế là chúng ta mất khí giới cuối cùng. Chính trị thì khôn ngoan, tìm đủ mọi cách cho tiềm lực dân tộc không có cơ phát hiện. Tổ chức Phật giáo thì thủ cựu, chia rẽ …”
Thật ra theo chúng tôi nghĩ, vào năm 1955, Nhất Hạnh vừa mới 29 tuổi và vừa tốt nghiệp Phật học đường Nam Việt không lâu. Một tu sỹ trẻ như vậy thì tầm nhìn chắc chắn giới hạn và công phu tu tập chưa có bao nhiêu, đức độ và uy tín trong hàng ngũ tăng ni vẫn còn khiêm tốn… thì làm sao có thể đủ năng lực đặt vấn đề “cơ cấu lại tổ chức giáo hội”, mà giáo hội Phật giáo xưa nay vốn là một đoàn thể không lệ thuộc vào tổ chức (không lụy vào tổ chức).
Thực sự, sinh mệnh của Phật giáo là sinh mệnh của chân lý, cho nên Phật giáo không bao giờ cần tới một thứ Giáo hội có tổ chức.
Bởi vì tăng già của đức Phật chỉ là một đơn vị tu tập để giải thoát khổ đau và đoạn tận tham, sân, si (giác ngộ) để chấm dứt luận hồi sinh tử, cho nên đạo Phật không bao giờ đặt vấn đề tổ chức một giáo hội như các tôn giáo bạn. Đạo Phật chỉ giáo hóa quần chúng bằng năng lực giác ngộ của mình (từ bi và trí tuệ) chứ không phải bằng sức mạnh của tổ chức, dẫu là một tổ chức của thánh thần.
Một câu chuyện ngụ ngôn Ấn Độ được Rajneesh Osho thuật lại như sau, chứng tỏ cái trí tuệ vĩ đại của nhứng người hiền triết Đông phương đã nhìn thấu suốt tất cả những ngõ ngách cuộc đời.
Ngụ ngôn này đã cho chúng ta thấy rõ cái nguy hại của việc tổ chức giáo hội và những hiểm họa của những giáo hội có tổ chức:
Âm binh bộ hạ của quỷ Satan rất lấy làm lo lắng khi trông thấy thế giới này xuất hiện nhiều kẻ tu hành, nhiều người thực hiện công đức, vô số những người bình thường bỗng dưng trở nên đạo đức và đi theo một tôn giáo nào đó. Một tên bộ hạ đến thưa với Satan:
- Sao thầy cứ ngồi yên ở đây vậy? Toàn bộ sự nghiệp của chúng ta đang lâm nguy. Rất nhiều người đã chứng ngộ và vô số con người đã thành Phật. Chúng ta phải làm gì để chống lại, nếu không thì các vị đạo sư ấy sẽ chuyển hóa tất cả mọi người và thế giới này sẽ biến thành Tịnh độ cả. Nếu chúng ta không kịp hành động thì nhân loại sẽ dồn ép chúng ta vào sinh sống trong sa mạc hoang vu, và chẳng có ai xuống địa ngục cả - e rằng chúng ta sẽ thất nghiệp cho mà xem! Thời gian không còn bao nhiêu nữa đâu, lại thêm một người nữa thành Phật rồi đấy!
Quỷ Satan thản nhiên cười rồi nói:
- Không sao đâu! Chớ lo nghĩ cho mệt trí. Ta đã hành động qua vài tên đệ tử của ta. Ta đã sai phái bọn chúng đi rồi, và chúng nó đang đi trên đường. Đệ tử của ta sẽ bao quanh bọn người tu hành kia và xúi giục bọn ấy tạo ra “những giáo hội có tổ chức”. Và những cái tổ chức ấy sẽ thay thế chúng ta mà thực hiện những gì chúng ta đã không làm nổi. Tổ chức sẽ tha hóa bọn chúng dần dần. Tổ chức sẽ khiến bản ngã bọn chúng trương phình lên, và bọn chúng sẽ tự động tranh chấp nhau, giết bỏ nhau, trừ khử lẫn nhau. Tổ chức càng lớn mạnh, thì mâu thuẫn giữa chúng càng gia tăng thêm lên mãi, đến nỗi bọn chúng không thế chấp nhận nhau, không thể chung sống hòa bình với nhau, ganh ghét nhau, chà đạp lẫn nhau.
Chúng ta không cần phải ra tay, nhưng mà chúng ta sẽ thành công tốt đẹp như thường! Khi bọn chúng có tổ chức đàng hoàng, nghiêm chỉnh, thì tổ chức ấy sẽ mau chóng thối rữa, mục nát, biến chất… đến nỗi chẳng cần chúng ta hành động rì ráo mà chúng ta vẫn đạt mục đích của mình! Cho nên, Satan ta chỉ đơn giản động viên bọn tu hành ấy mau mau thành lập tổ chức, và chúng ta luôn giúp đỡ bọn chúng sớm hoàn bị những tổ chức của chúng.
Chúng ta chỉ cần khoanh tay đứng nhìn sự thành công tất yếu của chúng ta, cái đó gọi là: “Bất chiến tự nhiên thành”! Chắc chắn chúng ta sẽ thành công.
Lịch sử đã chứng minh: Tổ chức càng mạnh mẽ và tín đồ càng đông đảo, cường thịnh, thì giáo chủ và giáo lý nhanh chóng bị lãng quên, bị vô hiệu hóa!
Một khi nhà thờ trang nghiêm và Giáo hoàng xuất hiện thì Đức chúa Christ bị lãng quên. Một khi tượng đài và chùa chiền nguy nga tráng lệ được xây dựng thì đức Phật bị giết hại, kinh điển bị hiểu lầm và ghi chép sai lạc!
Bao giờ cũng vậy, tôn giáo (có tổ chức) thì luôn luôn thành lập trên xác chết của các vị giáo chủ, trên xác chết của kinh điển. Đây là quy luật!
Nhà thờ luôn luôn được xây dựng vững chắc trên xác Chúa Jesus, và chùa chiền luôn luôn trụ vững và phát triển trên xác đức Phật.
Đó là chân lý muôn đời!
Chúng ta hãy chờ xem… Đừng nóng vội, dòng giống Satan chúng ta luôn luôn là những kẻ chiến thắng sau cùng…
Đây là một chuyện ngụ ngôn đầy tính hài hước và cường điệu, nhưng cũng có thể xem như câu trả lời “trung, ngôn, nghịch, nhĩ” cho bất kỳ những người Phật tử nào còn mơ ước đến việc thành lập và xây dựng một giáo hội có tổ chức!
Lại nữa, Nhất Hạnh khi ấy chỉ là một Tỳ kheo rất trẻ (1955), tuy có thiện chí và chút hiểu biết, nhưng vẫn chưa đủ năng lực tâm linh để cải hóa bản thân và hướng dẫn chính mình trên con đường tu học dài xa, huống hồ, ỷ vào chút thiện chí và mớ tri thức Tây hóa, thì làm được gì? Và nếu làm được gì thì kiếm chác hư danh, lợi dưỡng chứ cũng chẳng chuyển hóa xã hội nổi. Một triết gia Trung Quốc nói: Xã hội loạn không phải thiếu kẻ giúp đời, mà bởi vì có quá nhiều kẻ giúp đời.
Làm thế nào để chuyển hóa xã hội và thay đổi cả một cơ chế vô cùng lỏng lẻo, vốn tồn tại thong dong cả ngàn năm? Có một thực tại không thể chối bỏ: Thấy được cái sai lầm của người khác và của cuộc đời thì không khó khăn chi lắm, nhưng muốn chuyển hóa cuộc đời và cải biến người khác… thì là một công việc thiên nan vạn nan, ngay cả đức Phật cũng không thể làm nổi. Mà đạo Phật đâu có mục tiêu thay đổi cuộc đời?
Chúng ta phải nhìn nhận rằng, đức Phật chỉ cải biến tâm thức của từng cá nhân mà thôi. Phật giáo chỉ là con đường cải biến tâm linh, hay là phương thức cải biến tâm linh. Mọi giải quyết của đức Phật chỉ là giải quyết vấn đề đau khổ của từng cá nhân, chứ không phải là tập thể xã hội.
Một khi tâm thức của từng cá nhân được chuyển hóa thì xã hội sẽ được chuyển hóa theo (bởi vì xã hội chỉ bắt nguồn từ những cá nhân). Sự chuyển hóa của xã hội chỉ là mệnh đề phụ của công cuộc chuyển hóa tâm linh của từng cá nhân. Nếu chúng ta không hiểu nguyên tắc này thì chúng ta sẽ lạc vào mê hồn trận của cuộc đời (vọng thức phân biệt), rồi than vãn là: “Tại sao ta nắm chân lý trong bàn tay mà thiên hạ lại không có ai chịu nghe ta!”.
Dường như người Ấn Độ vô cùng sáng suốt khi cười vào mũi những nhà cải cách xã hội:
“Thế gian này vốn như cái đuôi con chó, đố ai có thể vuốt nó cho thẳng được?”
(John Yale, What geligion is, in the word of Vivekananda,
bản dịch Tôn giáo là gì, của Vương Gia Hớn).
Thực vậy, chúng ta nỗ lực vuốt thẳng được cái đuôi cho bây giờ, nhưng hễ vừa thả ra thì nó lại cong như cũ! Từ thời hữu sử tới nay, thế giới đã xuất hiện bao nhà cải cách, nhà tư tưởng, thánh nhân, hiền nhân, nhà luân lý, bao nhiêu “vạn thế sư biểu” nối nhau ra đời, nhưng rốt cuộc thế gian thì vẫn như vậy, có chuyển hóa được gì đâu?
Thời thượng cổ, con người giết nhau bằng ném đá, còn hiện nay con người giết nhau bằng vũ khí hạch tâm. Ngày xưa, người ta tỏ tình bằng chữ viết trên thẻ tre, bây giờ bọn trẻ tỏ tình bằng Internet. Chẳng có gì khác đâu? Hay là chỉ thay đổi phương thức sinh hoạt chứ cuộc đời thì vẫn vậy!
Mà giả thử, chúng ta thay đổi thế gian này trở thành một cảnh giới tốt đẹp như cõi Thiên, thì vấn đề đau khổ của nhân sinh đâu đã giải quyết xong? Hay chỉ là đánh tráo niềm đau khổ này bằng một hình thức đau khổ khác mà thôi? Theo giáo lý chính thống của Phật giáo (Tiểu thừa và cả Đại thừa đều chấp nhận) thì “cõi Thiên chỉ là cảnh giới của những người được triển hạn trầm luân” mà thôi. Cho nên đạo Phật cực lực bác bỏ nguyện vọng “sinh Thiên” thường có nơi tâm hồn những người theo đạo Bà - La - môn.
Không những tín đồ Phật giáo tuân thủ những giáo huấn này, mà Rajneesh Osho, một hiền triết Ấn Độ cũng nhận xét: Đức Phật luôn luôn phủ nhận Thượng đế và phủ nhận sự cứu rỗi, Thiên đường, cõi Trời, vân vân…
… Cõi Trời của bạn, Thiên đường của bạn, sự cứu rỗi của bạn: Tất cả chẳng là gì ngoài những ham muốn chưa được thỏa mãn của bạn, những bản năng chưa được đáp ứng của bạn và tất cả chúng ta đã được phóng chiếu thành cuộc sống khác, cuộc sống ở cõi bên kia, cuộc sống sau cái chết.
Nếu bạn thấy các tôn giáo khác đã mô tả cõi Trời, Thiên đường như thế nào, thì bạn sẽ hiểu điều ấy thật rõ. Bất kỳ cái gì chưa được thỏa mãn tại thế giới này thì bạn cứ phóng chiếu vào kiếp sống sắp tới mà những ham muốn thì vẫn như nhau! Đức Phật nói:
- Hãy từ bỏ hy vọng, từ bỏ ham muốn. Bạn nên sống ở đây, bây giờ. Khi mà tất cả ham muốn không còn lừa dối chúng ta nữa thì trí tuệ sẽ nở hoa…
(Trích cuốn “Thuyết giảng về Tứ Thập Nhị Chương Kinh” của Rajneesh Bhagavan,
do Giáo sư Ngô Trung Việt dịch ra Việt ngữ).
Cho dù Nhất Hạnh thực hiện được hoài bão của mình, nghĩa là một khi “tất cả những người Phật tử ở nước Việt Nam sẽ trở thành hạnh phúc, khoái lạc như cư dân cõi Trời lục dục”, thì vấn đề cuộc sống nhân sinh có chuyển hóa được gì chăng? Trong khi mục tiêu của đạo Phật là Diệt Khổ, giải thoát Luân hồi Sanh tử và thành Phật, chứ không phải là làm sao cho con người sung sướng và hưởng thụ tiện nghi nhiều hơn, tốt hơn và giáo hội được tổ chức nghiêm chỉnh hơn, chặt chẽ hơn…
Sau thất bại này, năm 1957 Nhất Hạnh thành lập Phương Bối Am tại vùng rừng núi Đại Lão Sơn (Đại Lào) ở Bảo Lộc và rút lui về ẩn cư khoảng 3 năm.
Nhưng huyện Bảo Lộc là một vùng trọng điểm của khu Dinh Điền do dân Công giáo toàn tòng di cư lập nên, (được Chính phủ Diệm Nhu thành lập bằng viện trợ Mỹ) dĩ nhiên chính quyền sở tại không mấy hài lòng khi xuất hiện một cơ sở Phật giáo như là Phương Bối Am vậy. Do đó, đến năm 1961, chính quyền huyện Bảo Lộc viện cớ rằng Phương Bối Am hiện đang thuộc vùng kiểm soát của Mặt trận Giải phóng Miền Nam Việt Nam cho nên ra lệnh cấm chỉ Phương Bối Am hoạt động. Nhất Hạnh và bằng hữu bị buộc phải rời bỏ cái nôi êm ấm của mình.
Khi bị xua đuổi khỏi Phương Bối Am, Nhất Hạnh rút về chùa huyện lỵ Bảo Lộc rồi xuất ngoại du học rồi dạy tại Viện đại học Princeton, NewYork cho đến 1964.
Với chủ trương hiện đại hóa Phật giáo còn mang nặng trong đầu óc, khi tiếp xúc với nền văn minh Tây phương cùng những tiến bộ khoa học vượt bậc của họ, Nhất Hạnh như là cá gặp nước.
Đây là cơ hội để Nhất Hạnh học hỏi và nghiên cứu thấu đáo những kinh nghiệm tổ chức và xây dựng xã hội của Âu, Mỹ, Nhật Bản. (Trích NẺO VỀ CỦA Ý).
Sau mùng 01/11/1963, Phật giáo thoát khỏi vòng áp chế và phong tỏa của chính quyền Diệm Nhu, thì lại rơi vào cái thế lúng túng. May thay, vào mùa hè năm 1964, Thượng tọa Thích Minh Châu về Việt Nam thành lập Viện đại học Vạn Hạnh và mời Nhất Hạnh hồi hương tham gia xây dựng và phát triển văn hóa Phật giáo. Như vậy, Nhất Hạnh có dịp tiếp tục thực hiện lý tưởng hiện đại hóa Phật giáo của mình. Song song với xây dựng Viện đại học Vạn Hạnh, Thượng tọa trẻ Nhất Hạnh còn thành lập Trường Thanh niên Phụng sự xã hội. Về sau, Nhất Hạnh kể lại như sau trong tác phẩm “Sen Nở Trời Phương Ngoại”:
Mục đích của Trường Thanh Niên Phụng Sự Xã hội không phải chỉ là công việc từ thiện, mà gồm cả công việc phát triển xã hội. Phong trào Trường Thanh Niên Phụng Sự Xã hội là để giúp dân, giúp nước, chứ không phải là để làm từ thiện đơn thuần. Giúp dân, giúp nước là giúp cho chính mình. Sau khi nghiên cứu nhiều nơi, tôi trở về lập trường Thanh Niên Phụng Sự Xã hội, nhằm 4 mục tiêu:

1. Giáo dục: Nông thôn có nhiều làng không có trường học và trẻ em lêu lổng, không có học vấn. Vì vậy, công việc đầu tiên của một tác viên xã hội khi về làng là tìm cách chơi với các em để dạy các em. Mình có thể chơi và dạy các em ở ngoài bờ sông hay dưới gốc đa. Khi số lượng các em lên đến hai ba mươi đứa, lúc trời mưa, mình kéo nhau vào xin tá túc ở nhà của một dân làng để tiếp tục việc học. Từ một ý niệm xây một mái trường bằng tre và lá dừa sinh ra, và chính người tác viên đó sẽ đề nghị dân làng họp lại để làm ngôi trường đó cho làng. Đừng đợi chính quyền hay một sự giúp đỡ từ bên ngoài vì đợi thì sẽ phải đợi hoài. Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội thì phải bắt đầu từ những cái gì mình có, từ những cái gì mình biết chứ không chờ đợi một sự viện trợ, dù sự viện trợ đó là từ chính quyền của nước mình.

2. Y tế: Thành lập một trạm y tế dạy dân làng cách phòng ngừa tật bệnh, và tự thiết lập những nhà vệ sinh bằng xi măng rẻ tiền. Dạy trẻ em ngăn ngừa những bệnh thông thường như bệnh cảm, bệnh sốt rét, bệnh đau mắt, vân vân…

3. Kinh tế: Làm sao cho sự sản xuất của dân làng tăng lên, ví dụ tìm cách tổ chức hợp tác xã, chỉ cho dân làng sử dụng phân bón đúng mức, cách chọn hạt giống, phương pháp trị liệu những chứng bệnh của cây cối, mùa màng, tổ chức để dân làng có thể làm những tiểu công nghệ trong giờ rảnh rỗi để tăng thêm ngân sách gia đình, giúp cho dân làng biết phương pháp chăn nuôi gà, vịt mà không để cho chúng bệnh tật.

4. Tổ chức: Giúp dân làng tổ chức lại làng xã, công việc tương trợ, tại vì nếu không tổ chức lại đàng hoàng thì mình không thành công được.

Sau này, nhà cải cách xã hội Nhất Hạnh thú nhận đây là một thất bại. Vẫn trong cuốn Sen Nở Trời Phương Ngoại, Sư ông Nhất Hạnh tỏ ra ân hận vì những sai lầm của mình:
Ở Huế, có một Phật tử tên là Bác Siêu. Bác tuy rất im lặng, nhưng vì Bác đã làm việc xã hội lâu ngày quá nên ở Thừa Thiên không ai là không biết bác và ai cũng nghĩ bác là một vị Bồ Tát. Bác làm việc rất âm thầm, vốn liếng của bác chỉ là một chiếc xe đạp rất cũ. Vậy mà ở đâu bác cũng đạp tới được, và bác đã giúp cho rất nhiều gia đình đơn bạc, nghèo đói, bệnh tật.
Bác Siêu không có gia tài, nhưng bác có một trái tim, vậy mà bác đã có nhiều bạn hữu có thể giúp bác làm công việc từ thiện.
Năm 1964, trong một chuyến về Huế, tôi đã mời Bác lên chùa Từ Hiếu để chuyện trò và học hỏi những kinh nghiệm của bác.
Hồi đó với kiến thức, với kinh nghiệm như vậy, tôi nghĩ rằng, phong trào Thanh Niên Phụng sự Xã hội sẽ là một hình thái mới và so sánh hình thái hoạt động cổ điển của bác Siêu… thì nó phải tiến bộ hơn nhiều. Cho nên tôi có niềm tin rất lớn và tôi nghĩ rằng mình có thể làm hay hơn bác Siêu.
Trong lúc tiếp xúc, bác Siêu ngồi im lặng nghe những điều tôi trình bày. Sau đó bác cũng đồng ý tham dự trong khi bác vẫn tiếp tục con đường riêng của bác.
(Trích cuốn sách “Sen Nở Trời Phương Ngoại” tác giả Nhất Hạnh, trang 229, 302).
Cho đến khi thời cuộc biến chuyển qua nhiều chế độ chính trị khác nhau, Nhất Hạnh đã thấy rõ sự thất bại của Trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội và phương thức làm việc rất Tây của mình. Khi ấy thì Nhất Hạnh nói tiếp: “Tôi mới nhận ra rằng cái phương pháp làm việc của bác Siêu rất là Vô Tướng. Bác vẫn tiếp tục công việc từ thiện như thường, vẫn với chiếc xe đạp cũ kỹ ọp ẹp đó, bác đi tới khắp hang cũng ngõ hẻm và vẫn làm được cái công việc mà ngày xưa tôi cho là không khoa học cho lắm”.
Hỡi ôi, dường như phải mất hơn hai chục năm, Nhất Hạnh mới nhận ra được cái sai lầm của mình. Cái sai lầm ấy, tuy Nhất Hạnh chỉ phải trả giá bằng những đêm mất ngủ, hoặc phải thay đổi chiến lược mới, chiến thuật mới - nhưng những người khác thì sao? Những người đệ tử của Nhất Hạnh và những tác viên trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội thì phải trả giá bằng cả tính mạng của mình: bị mưu sát, bị thủ tiêu, bị hãm hại bất ngờ trong đêm tối,…
Đáng thương thay!
Biết thì biết vậy, nhưng đầu óc Nhất Hạnh vẫn còn mang nặng tinh thần khoa học và đánh giá cuộc đời theo cái “tập khí nô lệ Tây phương” của mình. Đúng như Bùi Giáng đã nhận xét.
Trường Thanh Niên Phụng Sự Xã hội hồi đó dưới mắt những người yêu nước trong Mặt trận Giải phóng Miền Nam Việt Nam thì trường này có dáng dấp của Lực lượng Xây dựng Nông thôn của Mỹ (sản phẩm của CIA) hơn là cơ sở từ thiện Phật giáo. Cho nên họ buộc phải nghi ngờ và đề phòng.
Còn các vị Cha xứ vùng Tân Phú quận Tân Bình đều tỏ ra phẫn nộ và chống đối. Từ ngã tư Bảy Hiền cho đến Vườn Lài, là Giáo xứ toàn tong như giáo xứ Tân Việt, cho đến giáo xứ Vườn Lài, Tân Phú (Phú Thọ Hòa) đều thuộc đại phận cai quản của các vị chức sắc nổi tiếng như Cha Hải. Họ không muốn xuất hiện một cơ sở Phật giáo trong lòng lãnh địa bất khả xâm phạm của họ. Dĩ nhiên, họ nhìn các tác viên trường Thanh Niên Phụng Sự Xã hội một cách ác cảm. Chính quyền Thiệu Kỳ thì theo dõi khít khao, dĩ nhiên là họ cho rằng, Nhất Hạnh có thể là “Việt cộng trá hình”. Hoặc bọn Thiệu Kỳ có thể cảm thấy mục tiêu và hành động của Trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội gần giống như sinh hoạt Ba Cùng của Mặt trận Giải phóng.
Như vậy đó, chúng ta thử xét xem: một việc làm của Nhất Hạnh đã gieo rắc nghi ngờ cho nhiều phía, thì công việc ấy phải chăng là một hành động thiếu trí tuệ? Chỉ có thiện chí mà thôi, thì chưa đủ. Phải có trí tuệ thực sự thì mới được.
Trong hoàn cảnh đất nước và thực tại xã hội rối beng như vậy, việc làm của Nhất Hạnh tuy có thiện chí (và mưu đồ chính trị nữa) nhưng không có trí tuệ thì cuối cùng vẫn hoàn toàn thất bại.
Trong Lời giới thiệu cho cuốn Kinh Mạt PhápNhất tự Đà-lai-ni của Tỳ-kheo Thích Viên Đức, cư sỹ Ngô Trọng Anh viết:
Đạo Phật luôn luôn đề cao Trí tuệ. Trí tuệ trước, thiện chí sau.
Không biết bơi mà ham nhảy xuống nước cứu người thì không biết chừng chết đuối cả cặp”. (sic)
Phật giáo luôn luôn nhất mực đề cao trí tuệ, đạo Phật được xem là đạo của Trí Tuệ. Ngay cả thuộc tính Từ bi cũng phải bắt nguồn từ năng lực trí tuệ. Kẻ có trí tuệ thì không bao giờ mang động mà thực hiện những công việc như vậy. Vì sao? Nếu thành công thì tự đánh mất bản chất của đạo Phật và Trường Thanh Niên Phụng sự Xã Hội sẽ trở thành một tập đoàn thiện nguyện “có quyền lực kinh tế và chính trị” theo phong cách Tây phương mà thôi.
Cuối cùng, do vì nhiều lý do khách quan và nội tại được nêu trên, Trường Thanh Niên Phụng sự Xã Hội luôn luôn bị chính quyền lẫn các thế lực chính trị đương thời nghi ngờ và chống phá, cuối cùng chương trình hiện đại hóa Phật giáo qua các hoạt động xã hội của Nhất Hạnh lại bị dang dở và Nhất Hạnh có nguy cơ bị chính quyền Thiệu Kỳ bắt giam hoặc thủ tiêu bất kỳ lúc nào. Và giữa năm 1966, Nhất Hạnh lại xuất ngoại lần nữa và chuyến đi này không ai ngờ là quá lâu, đến nỗi gần 39 năm sau, Nhất Hạnh mới được trở về quê hương trong một tư cách khác và con người khác.
Theo bản ghi lý lịch của thiền sư Nhất Hạnh niêm yết tại chùa Từ Hiếu hiện nay, thì từ 1966 trở đi, Nhất Hạnh đã dạy học tại các viện đại học Columbia, Boston, New York, Amsterdam (Hà Lan), Sorbonne (Pháp).
Những ngày tháng lưu vong này đã vô tình biến Nhất Hạnh trở thành một nhà chính trị. Hay nói đúng hơn, một nhà chính trị khoác áo tu sỹ Phật giáo. Dù muốn hay không, Nhất Hạnh đã mặc nhiên thừa nhận vai trò chính trị của mình. Một thứ chính trị mà đạo Phật đã từng chối bỏ rất nhiều lần trên con đưòng chuyển hóa tâm thức từng cá thể của nhân loại bằng Như Thật Đạo.
Thất bại lớn lao nhất của Nhất Hạnh là bị tha hóa trầm trọng bởi các thế lực bên ngoài, kể cả việc bị tha hóa bởi đàn bà, và bỗng nhiên ông ta trở thành một trò hề của nghiệp báo, nạn nhân của chính mình.
Từ địa vị một tăng sỹ, qua cuộc hiện đại hóa Phật giáo của mình, Nhất Hạnh đã trở thành một nhà cải cách xã hội, rồi một nhà chánh trị dưới lốt một nhà tu. Sự kiện Nhất Hạnh có vợ thực ra chỉ là một hệ quả tất yếu chủa những năm tháng “lãng quên tu tập thiền quán”, những đêm ngày bôn ba bận rộn công việc “hiện đại hóa Phật giáo”.
Từ hiện đại hóa Phật giáo cho đến “Tha hóa bản thân” cũng chẳng xa xôi chi lắm! Chàng dũng sỹ xuống núi để trừ yêu diệt ma, xây dựng cuộc đời, cuối cùng chỉ vì lười biếng tu luyện bùa phép, cho nên bị âm binh bộ hạ phản phế, cuối cùng bị thế gian làm hủy hoại bản chất tâm linh của mình. (Xem:Cửa Tùng Đôi Cánh Gài)
Chúng ta đọc lại lời tâm sự của Nhất Hạnh với bạn đồng tu là chú tiểu Tâm Mãn:
Vốn liếng chúng tôi chỉ là hy vọng, chỉ là thiện chí, là một cuốn Tỳ ni, một cuốn Uy Nghi và một cuốn Cảnh Sách và những năm trời học ở Phật học đường Báo quốc. Chúng tôi có thể làm được gì chăng?
Trích TÌNH NGƯỜI , trang 123,124,125.
Nếu biết vốn liếng tu học của mình còn nhỏ nhoi, khiêm tốn, thì tại sao không chịu khó đóng cửa thiền thất mà tu tập cho đén khi cứng ngộ, khi ấy sẽ thừa năng lực tâm linh,đạo hạnh, từ bi trí tuệ … để có thể bước vào cuộc sống ngũ trược ác thế trong mục tiêu cứu độ hết thảy chúng sanh không phân biệt?
Khi ấy muốn hiện đại hóa Phật giáo hay hiện đại hóa bất cứ cái gì đều cũng được như ý cả! Bởi vì không tự lượng sức mình, và chạy theo vọng thức phân biệt, khiến cho tham vọng nổi lên, mà Nhất Hạnh đã chuốc lấy những thất bại chua xót, riêng chỉ ông ta và những người có hiểu biết thâm sâu về Phật học mới cảm nhận sự thất bại không nên nói ra quá sớm như thế này.
Nếu chỉ nhìn vào sự biểu dương lực lượng bề ngoài có vẻ hoành tráng, sặc sỡ, những chuyến đi du hành diễn xuất của tăng thân Làng Mai được mô tả ồn ào, ầm ĩ, những cuốn sách được in ra hàng triệu bản, những buổi tiếp kiến nồng nhiệt của các vị nguyên thủ quốc gia, những sự trong vọng của thiền đức tăng ni, sự cúng đường của Phật tử chúng … v.v… khiến những người Phật tử nhẹ dạ cả tin, và ít nghiên tầm giáo điển cứ nghĩ rằng Sư Ông đã thành công vĩ đại!
Nhưng chúng tôi biết chắc rằng, dù ở bất cứ nơi đâu, trong đêm khuya thanh vắng một mình một bóng, khi buộc phải đối diện với chính mình, Sư Ông Nhất Hạnh sẽ trầm tư lặng lẽ về sự nghiệp tu hành bản thân và không thể không có đôi ba tiếng thở dài!
Đây là thất bại lớn lao nhất của một con người. Sự thất bại đã được báo trước.

VI. KẾT LUẬN

Tình cảnh Phật giáo Việt Nam sau 1963 (nghĩa là sau chế độ Diệm Nhu) cũng tương tự như tình cảnh Phật giáo Trung hoa sau Cách mạng Tân Hợi 1911. Nhưng những người có trí tuệ chân thật muốn xây dựng Phật pháp như Hư Vân đại sư, Thái Hư đại sư, Hoằng Nhất đại sư, Ấn Quang pháp sư… thì chủ trương phục hồi Gới Luật, tạo mọi điều kiện để Tăng già lấy Giới Luật làm căn bản cho sự chứng ngộ, nền móng của đạo đức và tâm linh, chứ không phải lao vào cuộc sống hướng ngoại bằng cách mưu đồ hiện đại hóa Phật giáo.
Bất kỳ thời đại nào cũng vậy, muốn xây dựng Phật pháp thì không chi bằng đề cao sự tu chứng. Tăng sỹ thì phải thực sự tu chứng đã đành, mà bạch y cư sỹ cũng phải thực sự tu chứng. Có như vậy, được như vậy thì tất cả Phật tử nói chung bắt buộc phải thiết thực tu hành. Mà muốn tu hành bất cứ pháp môn nào thì cũng phải lấy Giới Luật làm căn bản.
Nhưng, như chúng ta đã biết, Nhất Hạnh muốn xây dựng đạo Phật nhưng chỉ quan tâm độc nhất tới một việc, đó là hiện đại hóa Phật giáo mà thôi. Vì sao? Bởi vì lăng xăng theo thế tục rồi bôn ba khắp nới và tuyên bố rùm beng về hiện đại hóa Phật giáo để mưu đồ danh vọng và quyền lực thế gian, quả là một công việc dễ thực hiện, còn tu chứng là một công việc thiên nan vạn nan mà lại chẳng thu hoạch được chút danh lợi gì!
Lầm lẫn quan trọng thứ nhất của Nhất Hạnh là: Bỏ quên nền tảng Phật giáo chính là Giới Luật.
Thật vậy, nếu chúng ta muốn canh tân Phật giáo thì không chi hơn là phục hồi tinh thần tôn trọng Giới Luật, chứ không phải sửa đổi Chân lý nhà Phật sao cho thích ứng với trào lưu xã hội mà chúng ta gọi là văn minh, tiên tiến. Tại sao như vậy? Bởi vì bất kỳ trào lưu tiến bộ nào của nhân loại rồi cũng phải thay đổi theo thời gian, theo hoàn cảnh nhân sinh, nhưng Giới Luật của đức Phật thì vẫn là nền tảng cho muôn đời, nếu chúng sanh khao khát chứng ngộ thực sự!
Bởi vì không lấy Giới Luật làm cơ sở cho mọi hành vi của mình, nên bồ đề tâm dễ dàng bị thối thất, sa lạc. Từ đó, Nhất Hạnh vô tình để cho cái Ngã chấp của mình bành trướng theo những thành tựu nhất thời (thành công theo con mắt thế gian), và xao lãng sự nghiệp chứng ngộ.
Đây là lời dạy của Ngẫu Ích đại sư từ hơn 300 năm trước mà sao chúng ta lại tưởng chừng như mới nghe ngài vừa nói đâu đây ngày hôm qua:
Nhất Hạnh thường rêu rao và ca ngợi cái mục tiêu “An Lạc trong hiện tại” mà bỏ quên cái quan trọng cốt lõi của đạo Phật là:
Đức Phật xuất hiện ở thế gian chỉ để giúp chúng sanh sớm giải thoát cái khổ đau của luận hồi sanh tử và thực hành hạnh nguyện Bồ tát đạo, chứng ngộ quả vị Phật đà.
Trí Giả đại sư bảo:
“Còn vì danh lợi mà phát tâm bồ đề, đó là cái Nhân của tam đồ. Sai đi mảy may, đất trời cách biệt. Một khi đã lầm nhận, thì vị đề hồ đã hóa thành độc dược.
Kẻ học đạo ngày nay thọ giới, nghe kinh, tham thiền, tạo phước, miệng cũng nói là chân thật vì việc lớn sanh tử, nhưng trong lòng quả thật chưa biết cái đại khổ của Sanh Tử, nó gấp rút như lửa cháy lông mi như thế nào… chẳng biết từ vô thủy đến giờ, cứ đầu thai hết kiếp sống này đến kiếp sống khác, oan uổng chịu nhiều đau khổ chua cay?
Mà ngày nay may được làm thân người, may có được Tăng tướng, nhưng cũng phải trải qua biết bao nhiêu là khổ nạn, vậy mà không phát tâm mãnh liệt, chấn lìa sinh tử, điều này chẳng khác gì “chim sẻ làm tổ trên cột nhà”.
Để khép lại chương này, chúng tôi xin trích dẫn lời dạy của đại sư Ngẫu Ích dùng để răn dạy đồ chúng từ thế kỷ 16, trong cuốn sách: “Ngẫu Ích Đại Sư, Hành trạng và Pháp ngữ”, cảo bản của tác giả Thích Định Thông. Nghe như là một lời tiên tri cho vận mệnh đạo pháp thế kỷ 21:
Căn bệnh của các thiền giả thời bấy giờ, rõ ràng là ở chỗ KHÔNG CÓ CHÁNH TRI KIẾN, chứ không phải là ở chỗ nhiều tri kiến, bệnh là ở chỗ KHÔNG TÔN TRỌNG GIỚI LUẬT, chứ khôg phải là ở chỗ giữ giới quá rồi bị vướng mắc nời giới tướng. Vì thế, phải lau cho sạch một chữ thiền mà dốc lực lấy Giới Luật mà giáo hóa, khuông phò, cứu giúp và càng phải để lòng cầu được cùng với 5 vị Tỳ kheo như pháp, khíên cho chánh pháp được trùng hưng.
Chúng tôi xin nhắc lại:
Lau sạch một chữ Thiền
Lấy giới luật mà giáo hóa, khuông phò, cứu giúp,
Cầu được ở chung với 5 vị Tỳ kheo như pháp,
Khiến cho chánh pháp được trùng hưng.

***

Chương thứ ba

THIỀN SƯ CÓ VỢ

Trong cuốn sách “Hoa Ngọc Lan”,viết về cuộc đời của Ngài Tăng Thống Thích Tịnh Khiết,khi bàn về phong trào đòi hỏi thành lập Tân Tăng của các nhà sư muốn hiện đại hoá Phật giáo,tác giả Chơn Thiện đã nhận định đại ý như sau:
- Chúng ta không thể thành lập Tân Tăng tại Việt Nam bởi vì quần chúng Phật-tử vẫn muốn sùng bái một đoàn thể tăng-già với đầy đủ tư cách những người tu phạm hạnh. Cho đến nay, Giáo hội Phật giáo Việt Nam không chấp nhận hình thức Tân Tăng.
Như vậy, rõ ràng là Phật-tử Việt Nam vẫn muốn lưư giữ hình ảnh những người tu hành theo truyền thống lấy giới luật làm đầu, mà trong đó, điều kiện “ắt có” và “trước nhất” để trở thành một người xuất gia la: Phải sống dộc thân trọn đời.
Đương nhiên những người nào cảm thấy nửa chừng đứt gánh, không thể chịu nổi cuộc sống tu hành, thì có thể hoàn tục. (Kinh Đại Bát-nhã nói: Ngài Bồ - tát Văn Thù vô cùng hoan hỷ khi thấy các sư hoàn tục,còn hơn là sống lây lất qua ngày và lạm dụng của tín thí).
Mặc dù xung quang đây đó không thiếu những kẻ đội lốt xuất gia, những người đanh rơi trí nguyện giải thoát, những người thầy tu “bị bể bình bát” vì lỡ dại làm đệ tử mang bầu và phải cởi áo khẩn cấp, những vị tu sĩ thất bại trước nữ sắc, tình dục. Hạng người này vừa khoác áo tu sĩ vừa… có vợ (dĩ nhiên họ buộc phải dấu diếm bà vợ và con gái ở khuất một nơi nào đó chứ không thể chung sống như những cặp vợ chồng cư sỹ). Nhưng chủ trương của Giáo hội Phật giáo Việt nam luôn luôn đề cao nếp sống giải thoát phù hợp với luật và như vậy, người xuất gia nên tự nguyện sống độc thân. Giáo hội chỉ chấp nhận những người độc thân vào hàng ngũ Tăng-già, một ngôi cao quý trong Tam bảo.
Thật vậy, Phật - tử chúng ta không thể nào chấp nhận những người xuất gia có vợ. Sự kiện này có thể xảy ra ở Nhật Bản, Tây Tạng, hoặc bên Tây bên Mỹ chẳng hạn. Nhưng tại Việt Nam thì truyền thống tôn trọng giới luật vẫn còn lan toả và thấm nhiễm âm thầm trong nhân gian, cho nên sự kiện một người xuất gia có vợ dường như không ai có thể chấp nhận.
Một cuộc sống trái khóay như vậy, nghĩa là vừa duy trì sinh hoạt thanh tịnh như một người xuất gia chân chính, vừa ngang nhiên lăn lộn trong đời sống thế tục, quả là gây nhiều “chướng tai gai mắt” cho những người Phật-tử, đánh mất chỗ nương tựa vô giá trong lòng quần chúng đặt trọn niềm tin nơi Tăng bảo.
Và trước sau gì, những tu sỹ giả trá với nếp sống hai mặt này, cũng sẽ bị lộ diện, và đã bị lộ diện. Điều này ví như lấy bàn tay ma che chắn ánh măt trời.
Ngạn ngữ Tây phương nói: Sau mọi thành công của người đàn ông thì luôn luôn xuất hiện bóng dáng của người phụ nữ. Không lẽ điều này vẫn đúng cho trường hợp của Nhất Hạnh ?
Cao Ngọc Phượng chính là một bước ngoặt cuộc đời quan trọng nhất trong cuộc đời tu hành và sự nghiệp hiện đại hoá Phật giáo của Nhất Hạnh. Nàng vốn xuất thân là tiểu thư một đại phú gia ở Miền Tây Nam Bộ, được cha mẹ cho phép học hành tới nơi tới chốn, và dĩ nhiên do nhân duyên đưa đẩy, nàng đã gặp gỡ Nhất Hạnh tại một ngôi chùa nhỏ ở Sài Gòn năm 1959.
Sau khi theo một khoá giảng nhiều ngày tại chùa này, Cao Ngọc Phượng bắt đầu cảm thấy mình không thể rời xa vị tu sỹ tài hoa này nữa, nhất là ngoài tai năng giảng thuyết, vị tu sỹ này còn giỏi thơ văn và có chí hướng làm cách mạng Phật giáo.
Một người đàn ông chân chính có tài văn thơ, có lý tương chọc trời khuấy nước như vậy, lại khoác áo tăng sỹ nhà Phật, làm sao cô em không thể động lòng mà tỏ ra mến phục cho được? Từ chỗ mến phục cho đến “yêu thương chân thành” thì cũng chỉ là một bước ngắn như sợi tóc mai.
Trong sự nghiệp hiện đại hoá Phât giáo nếu không có Cao Ngọc Phượng ủng hộ tài chánh lẫn uỷ lao tinh thần thì Nhất hạnh không thể dấn thân một cách mạnh mẽ. Năm 1966, chúng tôi ngẫu nhiên ghé thăm Trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội thì cũng đã gặp Cao Ngọc Phượng tại đây và nghe chư huynh đệ thi thào với nhau:
- Cô này là đệ tử thân thiết và đồng chí tin cậy của thượng toạ Nhất Hạnh, một người đã từng dốc nhiều tài sản của cha mẹ để giúp đỡ TS Thích Nhất Hạnh thực hiện các công tác xã hội cũng như tất cả các Phật sự khác.
Chúng ta nên biết người phụ nữ luôn luôn tấn công một cách kiên trì cho đến khi thành công, và trong trường hợp này thì bất cứ lúc nào người đàn ông cũng thất bại. Người đàn ông là kẻ chiến thắng trong tất cả mọi trận tuyến, ngoại trừ cuộc chiến dai dẳng và êm ả của ngườ phụ nữ ! Lịch sử đã chứng minh điều này.
Nhất Hạnh là một người tự tin và yếu đuối. Đọc văn Nhất Hạnh và nghe giọng nói nhè nhẹ ôn nhu của Nhất Hạnh, chắc chắn chúng ta cũng cảm nhận cái tố chất “thái giám” đang lan toa và gây ân tượng cho những người khác. Vầng trán tương đối khá cao, dấu hiệu của con người thông minh nhưng không phải là con người có khí cốt đặc dị xưa nay hiếm. Đỉnh đầu nhô lên: chứng tỏ nhiều kiếp trước có tu tập thiền quán chút ít (mà cũng có thể là thiền ngoại đạo).
ấn tượng xấu nhất trên khuôn mặt Nhất hạnh là một nốt ruồi khá lớn nằm áng trên mi mắt phải và lộ rõ dưới chân mày, là dấu hiệu “luỵ vì nữ sắc”, chúng ta có thể hiểu la “luỵ vì cuộc đời”, tức la bị quay cuồng theo nghiệp báo chứ không phải vận hành theo đại nguyện và đại từ tâm. Được cái lỗ mũi thẳng và đẹp, có chút ít phước báo được tích luỹ từ trước nhưng không đủ cứuvớt bản thân ra khỏi cơn lốc định nghiệp.
Nhưng đôi mày dày dặn, khuynh hướng dục tính không thể cưỡng lại nổi, khiến ông ta luôn luôn tràn đầy đam mê.
Hai tổ tai mỏng và vễnh ra, rất xấu tướng. Những khi thuyết giảng thì Nhất Hạnh có đôi mắt thường hay láo liên, không dám ngó thẳng vào người đối diện. Nhãn quang yếu ớt và không ngay chính. Dù sao, Nhât Hạnh không thể che giấu được đôi gò má ẩn tàng những vệt hắc khí của ưu tư uỷ mị, phiền não vô vọng.
Văn khí mêm mại, óng ả son phấn. Làm thơ và viết văn mang nặng bản chất “duy lý”, thiếu chân thực và hay cường điệu, khoa đại, hư cấu vô lối. Loai văn chương “trang sức loè loẹt” và màu mè này chỉ hấp dẫn những người phụ nữ lười biếng tư duy, những người đàn ông ít học, những vị tu sỹ bị ức chế tình dục.
Nhất Hạnh vẫn nghĩ rằng, mình có thể sử dụng năng lực tu tập bản thân để chống lại cuộc tấn công của người phụ nữ kiên trì này. Trong cuốn “đạo Phật hiện đại hoá”, trang 53, Lá bối xuất bản năm 1968, Nhất Hạnh viết:
“Đi tu tức là đi ngược dòng, làm trái lại với hướng tự nhiên của cuộc sống. Thực hiện thiền định, là để chứng ngộ mà cũng là để thiết lập lại thăng bằng của đời sống sinh lý và do đó người chân tu tham phiền nhập định thì cũng thấy thân thể bình thường an ổn như mọi người. Duy chỉ có những vị tăng sỹ không thực nghiệm không thực nghiệm thiên quán sẽ cảm thấy bất an. chính thân thể các vị phá cách các vị ấy, và trong trường hợp này là ta chứng kiến những thảm kịch im lặng.
Quả đúng thật như thế, vào những năm 1966 cho đến 1975, Nhất Hạnh suốt ngày chỉ chuyên tâm lo việc chính trị, vận động hoà bình, tuyên cáo, tiếp xúc các VIP, vân vân … và dĩ nhiên lơ là công phu tụng kinh niệm Phật (huống hồ nói chi đến việc thực tập thiền quán). Kết quả là Nhất Hạnh với bản chất nghệ sỹ, đã “đầu hàng” trước cuộc tấn công của nàng, như bản thân Nhất Hạnh đã từng tiên tri đúng y như nội dung câu nói vừa được trích dẫn ở trên.
Cuộc đời Nhất Hạnh là một “dây chuyền công nghệ triển lãm và trình bày”. Nghĩa là trong lòng có bao nhiêu đều được Nhất Hạnh phô trương ra hết cả. Nàng Kiều cũng có những nét tiêu biểu như vậy, cho nên Nhất Hạnh luôn luôn tỏ ra “đồng thanh tương ứng” với kiều, và Nhất hạnh tự hào mình là một người bình luận Kiều hay nhất, hơn hẳn các giao sư văn học Việt Nam !
Thả Một Bè Lau, là cuốn sách chú giải và bình Kiều, Nhất Hạnh đã viết :
“Nhớ từ năm hãy thơ ngây,
Có người tướng sỹ đoán ngay một lời :
Anh hoa phát tiết ra ngoài,
Nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa.
Ông thầy tướng nói : “Tất cả những cái tinh anh của con người Thuý Kiều đều lộ ra ngoài hết. Sợ rằng suốt đời cô sẽ khổ”. Khi có những cái quý, cái hay, người ta phải biết giấu bớt vào bên trong. Anh hoa là cái tinh ba, cái đẹp nhất của con người. Nếu phát tiết ra ngoài hết thì bên trong sẽ không còn gì nữa. Và như vậy, sẽ chiêu cảm vào những tai nạn. Những người có hạnh phúc là những người chất chứa được nội dung và nội lực bên trong. Họ không để hết tất cả phát hiện ra ngoài. Những nhà có củi chất nhiều trong kho thì sẽ được ấm suốt mùa đông. Nếu có bao nhiêu củi đều đem ra đốt hết, thì sẽ có lúc lạnh”.
Đây là những dòng chữ do Nhất Hạnh viết về nàng Kiều, nhưng chúng ta lại thấy rằng, dường như Nhất Hạnh đang nói về chính mình.
Theo giáo lý Duy Thức, (mà Nhất Hạnh là một giáo sư rất giỏi về việc giảng giải giáo lý này) thì đối tượng và Tâm vốn là Không Hai (Bất Nhị). Ta nói về cái gì, thì tức là Ta là Cái ấy. Ta quan tâm đến cại gì, thì phải biết trong thời điểm ấy, Ta là Cái đó.
Và bình Kiều hoặc viết về Kiều – tức là binh và nói về bản thân mình.
Quả thật như vậy, Nhất Hạnh là một thiên tài vô cùng tham lam. Trong bất cứ lãnh vực nào, Nhất hạnh đều muốn tỏ ra thành thạo, thông suốt và thấu đạt, và nếu chúng ta không muốn nói là Nhất Hạnh luôn luôn tỏ ra xuất sắc trong tất cả các địa hạt, đến nỗi lắm lúc Nhất Hạnh đã quên luôn bản thân vốn là một tu sỹ Phật giáo và ông ta quên hành xử như là một người ăn cơm khoác áo Tỳ-kheo !
Bởi vì tham lam, cho nên Nhất Hạnh đã trút tất cả tài năng của mình vào tất cả mọi công việc… ngay cả công việc thế gian, ngay cả những lãnh vực không chuyên của mình. Nhất Hạnh dường như không kiêng kỵ bất cứ lãnh vực nào, không tránh né bất cứ vấn đề nào và còn bịa chuyện tưởng tượng ra những chuyện không phù hợp với ngôn ngữ nhà Phật. Và ở trong bất cứ địa hạt nào Nhất Hạnh cũng cố làm ra vẻ hoàn toàn xuất sắc, vượt trội người khác.
Trong một buổi họp tại chùa Từ Hiếu, Nhất Hạnh ra chỉ thị phải xây dựng một thiền viện Thể Nhập ở nơi này, hình thức như dòng tu kín, với kỷ luật gắt gao, tu hành nghiêm cẩn mà bài bản là những giáo trình từ bên Tây Mỹ đưa về.
Đây là một pháp môn ngoại nhập quá ư mới mẻ và xa lạ. Cho nên một vài đệ tử cảm thấy không thuận tiện và thích hợp, ngại rằng giới tu sỹ Huế sẽ phản đối kịch liệt, bền tần ngần bày tỏ ý kiến mong đạo sư Nhất Hạnh xem xét lại …
Tức khắc Nhât Hạnh phản ứng bằng cách phán môt câu xanh dờn:
- Tại sao lại không được? Ngay cả bọn bên Tây bên Mỹ đều răm rắp nghe theo lời ta cả. Còn mấy ông sao lại có ý kiến này nọ?
Cái Ngã của Nhất Hạnh đã bị phô bày ra giữa ban ngày ban mặt: Luôn luôn cho mình là đệ nhất thế gian, hơn hẳn những người khác, trên đời này chẳng có ai dám sánh với mình cả!
Thậm chí, Nhất Hạnh còn đem thơ của mình ra bình giảng dưới dạng kinh điển nữa!
Rải rác trong các cuốn sách hướng dẫn đệ tử tu tập. Nhất Hạnh cũng không bao giờ quên dùng thơ của mình để bình giảng, hay nói đúng hơn là “tự khen” thơ của mình. Tự nâng thơ của mình lên ngang bằng tầm kinh điển Phật giáo !
Mời quý vị đọc cuốn sách “Năm Cánh Toả Kỳ Hương” trang 103, Nhất Hạnh đã đăng nguyên bài thơ “Trường Ca Avril”. Hay là cuốn sách giảng giải kinh Diệu Pháp Liên Hoa, mà Nhât Hạnh dặt lại cái nhan đề rất thơ mộng “Sen Nở Trời Phương Ngoại”. Từ trang 77 đến trang 89, Nhất Hạnh đem bài thơ “Tiếng Gọi” làm năm 1966 trong lần viếng thăm Úc châu, đăng trong cuốn sách “Thử Tìm Dấu Chân Trên Cát”.
Còn nhiều, còn nhiều nữa, nếu chúng ta lục tìm sẽ bắt gặp nhan nhản. Công việc này thực sự chỉ thu hút và loè bịp được những người đệ tử không chịu tư duy và học vấn kém cỏi, bởi vì khi sử dụng thủ pháp hạ cấp này, tỏ ra Nhất Hạnh vẫn còn rất ấu trĩ, không khác chi thủ pháp của Thanh Hải Vô thượng sư cả. Tất cả những điều này chứng tỏ Nhất Hạnh luôn luôn tự xem mình là giáo chủ, luôn luôn lên giọng giáo chủ.
Thưa quý vị, một nhà sư không tròn giới hạnh, hay nói đúng hơn, giới hạnh bị kém khuyết, nhưng vẫn luôn luôn tự xem mình là Thiền sư, Giáo chủ, Truyền giới sư, Tổ sư môn giới Tỉnh Giác, Bậc Khai Đạo của pháp môn An Trụ Hiện Tại, vân vân… thì phải nói rằng, dường như sự xuất hiện của Nhất Hạnh đã và đang mở đầu cho một thời kỳ mạt pháp trong lịch sử Phật giáo Việt Nam cũng như lịch sử Phật giáo nhân loại.
Ni sư Thích nữ Trí Hải, trong buổi nói chuyện tại thiền viện Vạn Hạnh về thơ văn và cuộc đời của thi sỹ Bùi Giáng, đã nói về sự kiện gần đây trong Phật giáo : có vài vị tu sỹ lâu năm, đã tự xưng mình là Thiền sư này nọ:
… cũng như trong Phật giáo, thiền sư tự phong mà không có thầy ấn chứng thì gọi là bàng môn tả đạo, tà ma ngoại đạo cả !
Cho nên kẻ nào chứng đạo thường thường thao thức đi tìm một người ấn chứng cho sự giác ngộ của mình. Giống như là Vĩnh Gia Huyền Giác đại sư khi ngộ đạo cũng cần tìm đến ngài Huệ Năng để tham vân xem cái ngộ của mình có đúng, có chân chánh hay là không ? nếu tự tu tự ngộ tự chứng thì gọi là bàng môn tả đạo. Cho nên không phải ai cũng có thể tự xưng “thiền sư” hay “tổ sư” cả đâu ! Xét theo tiêu chuẩn chính thống, thì phải bái kiến một bậc thầy đã chứng ngộ, rồi cầu xin vị này ấn chứng cho mình.
Nhìn cuộc đời của Nhất Hạnh, chúng ta sực nhớ tới những lời đức Phật Thích Ca giảng dạy cho chúng sanh về giai đoạn mạt pháp.
Khi đức Thế tôn sắp niết bàn, ngài có huyền ký tình trạng trong đời mạt pháp và lúc chánh pháp sắp diệt.
Xin dẫn ra đây ít đoạn để cho hàng Phật - tử xuất gia tại gia tự kiểm điểm, gạn bỏ điều ác, tu tập pháp lành.
Trong kinh đại bi, đức Phật bảo: “Này A-nan! Khi ta niết bàn rồi, trong thời gian 500 năm rốt sau, nhóm người giữ giới, y theo chánh pháp lần lần tiêu giảm; các bè đảng phá giới, làm điiêù phi pháp ngày càng tăng thêm nhiều. Bấy giờ có mhiều Tỳ-kheo đắm mê danh loẹi, không tu thân tâm, giới định tuệ… ban sơ dùng đức tin, tâm lành,bỏ tục xuất gia; nhưng sau khi xuất gia họ lại tham trước danh lợi, không cố gắng tu hành, nên kết cụôc bị đoạ vào ác đạo…

Kinh Ma Ha Ma Gia nói… Từ đó về sau, lần lần hàng xuất gia huỷ phá giới luật, hoặc uống rượu, hoặc sát sanh, hoặc đem bán đồ vật của ngôi tam bảo, hoặc làm hạnh bất tịnh, (Tỳ-kheo lấy vợ) nếu có con thì trai làm tăng, gái làm ni, chỉ có số ít người biết giữ giới hạnh, gắng lo duy trì và hoằng dương chánh giáo. Khi áo cà sa của tăng ni biến thàmh sắc trắng, đó là triệu chứng Phật pháp sắp diệt…”
Trong kinh Pháp Diệt Tận, đức Phật bảo: “Về sau, khi pháp của ta sắp diệt, nơi cõi ngũ trược này tà đạo nổi lên rất thạnh. Lúc ấy có những quyến thuộc ma vào làm sa-môn để phá rối đạp pháp của ta.
(Phật học tinh yếu, Tập 2, soạn giả Thích Thiên Tâm, NXB Tp. Hồ Chí Minh, 1999)
Hoặc chúng ta thử lật lại mấy trang kinh Đại Bảo Tích, do hoà thượng Thích Trí Tịnh dịch, Thành hội thành phố Hồ Chí Minh xuất bản, trang 184 cho đến trang 209. Phẩm Pháp Hội Hộ Quốc Bồ-tát, như sau:
Chư Tỳ-kheo trong đời vị lai
Vứt bỏ công đức và giới hạnh
Vì lòng tật đố và đấu tranh
Làm tổn hư mất chánh pháp Phật
Họ cách Bồ đề rất xa vời
Họ cũng xa rời các thánh tài
Chống trái tám đường chánh giải thoát
Trôi lăn năm loài trong sanh tử.

ác tỳ - kheo kia tham còn hơn chứa nuôi vợ con, cầu chẳng chán
Cùng các kẻ tục không có khác
Nếu Nhất Hạnh tự xưng mình là một cư sỹ thì chính xác hơn, nhưng ông ta bất cứ lúc nào cũng tự xưng thiền sư và lên mặt đạo sư để giáo hoá chúng đệ tử, và muốn lấy chúng bản thân làm mẫu mực cho muôn đời sau. Điều này thì đức Phật cũng đã dự báo trong các kinh điển: Giáo hoá người tục hoá đoạn dục, Rằng người tham dục hoá ác đạo, Đoạ vào địa ngục, quỷ, súc sanh, Nhưng chính bản thân mình chẳng y giáo, Làm sao truyền pháp giáo hoá người? Mời quý vị đọc nguyên văn một đoạn được trích từ Kinh Đại Bảo Tích:
Tuỳ thuận phiền não không thánh hạnh
Phương tiện tiện dụ phỉnh các phụ nữ
Giáo hoá người tục hoá đoạn dục
Rằng người tham dục đoạ ác đạo
Đoạ vào địa ngục, quỷ, súc sanh
Nhưng chính thân mình chẳng y giáo
Làm sao truyền pháp giáo hoá người ?
Người này ba nghiệp chẳng đúng pháp
Bao nhiêu quyến thuộc cũng như vậy,
Ngày đem họp bàn không thôi nghỉ
Chỉ luận ngũ dục các thế sự
Nhận nuôi môn đồ chỉ sai khiến
Trọn không dạy bảo các đạo lành
Nhận đệ tử đông tụ bao quanh
Hiển mình đức lớn cầu danh lợi
Ngoài hiện dị tướng dối từ bi
Chẳng làm việc làm của tỳ - kheo
Chẳng đạo chẳng tục không tên gọi
Dường như khúc gỗ hư mục rã
Đối với luật nghi lòng khinh rẻ
Bồ-tát khuyến giới cũng coi khinh
Tự tại dạo chơi trái lời Phật . .
Ngày đêm thường luận quốc độ sự
Cũng thường luận nói nơi đạo tặc
Thân tâm chuyên lo việc thân duyên
Bỏ lìa thiền định và chí huệ
Dầu cho có tu, ưa sự thô
Lòng lo tự an nên xây dựng
Giả sử xây dựng tăng - già - lam
Tham ưa phòng nhà, mày luôn nhíu
Thân khẩu ý mình chẳng điều nhu
Đồ chúng học theo cũng giống vậy

Ác tỳ - kheo ấy như tục nhơn
Chứa nhiều tiền của, quyến thuộc đông
Hàng đệ tử phật sống đúng pháp
Họ luôn đuổi xua chẳng cho ở

Nhất hạnh luôn luôn đem cái Ta của mình vào trong các bài giảng, và ít khi chịu trích dẫn lời đức Phật đã dạy. Đây là một thứ ngã bạn của con người chỉ biết tới cái Tôi của mình. Điều này thì kinh điển nhà Phật cũng đã dự báo từ lâu. Mời quý vị đọc lại mấy đoạn kinh Đại Bảo tích, cũng do Hoà thượng Thích Trí Tịnh dịch ra Việt ngữ:
Phật giáo chánh pháp tạng công đức
Đầy đủ tất cả công đức diệu
Đời sau bị hoại không còn hiện
Bởi do ngã mạn không trì giới
Như kho báu kia bị người phá
Như ao hoa sen bị khô cạn
Như xe báu kia bị gãy hư
Đời sau Phật pháp cũng như vậy,
Ác Tỳ-kheo kia khó điều phục
Ở trong đời ác thuở vị lai
Phá hoại Phật pháp rất đáng sợ …
Và cả đoạn này nữa: Kinh Đại Bảo Tích tập 5, Thích Trí Tịnh dịch, thành hội thành phố Hồ Chí Minh xuất bản, trang 528 cho đến trang 530. Phẩm Pháp Hội Ma-Ha Ca-Diếp:
Nầy Ca Diếp! Đời vị lai năm trăm năm sau, có hang tương tợ Sa-Môn, y phục hình mạo giống tượng Sa-Môn mà giới luật chẳng tương tợ, định chẳng tương tợ, huệ chẳng tương tợ.

Nầy Ca Diếp! Đức phật thường bảo rằng: thà đốt nóng làm y phục chứ chớ chẳng đem thân phá giới mà mặc áo ca sa - thà nuốt sắt nóng chớ chẳng đem thân phá giới ma ăn của tín thí.
Một người thông kim bác cổ như Nhất Hạnh lẽ nào không biết những điều này? Biết chứ! Lại còn biết rất rõ nữa là đằng khác. Chúng ta hãy xem : trong tác phẩm Đường Xưa Mây Trắng, trang 466, Nhât Hạnh cũng đã viết để giáo dục đệ tử và chúng sanh như sau:
Đã khoác áo ca sa
Tham dục còn đuổi theo
Như trâu nhớ lúa người
Quả thật là hổ thẹn !
Con của nhà đại tướng
Tài giỏi nghề cung tên
Ngàn người bắn tứ phía
Vẫn phá được vòng vây
Nay giai nhân có đến
Đông hơn là quân tràm
An trú nơi chánh pháp
Ta quyết cũng không sờn
Ta đã theo Thế tôn
Của dòng họ Mặt trời
Trên đường về thong dong
Tính ta đã trọn gửi
Do hộ trì sáu căn
Ta ung dung tiến bước
Não phiền dù vô lượng
Nào lay chuyển được ta?
Không những là biết quá rõ, không những đã từng đọc và nghiên cứu kinh điển như thế này, ngược lại Nhất Hạnh còn lên mặt dạy dỗ môn sinh trong tư cách một người thầy mẫu mực từ lời nói tới hành động, một người đạo sư thanh khiết, giới đức vẹn toàn, tuệ giác bao la cao rộng. Nhất Hạnh đã dạy chúng sanh và đệ tử ra sao? Chúng ta hãy đọc đoạn văn sau, cũng trích dẫn từ Đường Xưa Mây Trắng, trang 380:
An trú trong tĩnh mặc
Thấy Pháp, trở về nguồn
Không hận thù bạo động
Niềm an lạc trào tuôn
Điều phục được kiêu mạn
Sống an hoà chân thật
Vượt ra ngoài ái nhiễm
Là niềm vui chân thật.
Nhưng, than ôi, thật vô cùng khó khăn khi phải thực hành theo những lời dạy trên. Đem nhữngcái hay cái đẹp của đức Phật rồi chế biến thêm thắt để dạy người khác thì thật vô cùng dễ dàng, nhưng bản thân thực tập theo những lời dạy ấy một cách trọn vẹn, thì… duy chỉ có bậc thánh nhân mới làm nổi. Mà Nhất hạnh đâu phải là thánh nhân? Hay chỉ là một loại Ma giả Phật, chen vào hàng ngũ sa-môn để huỷ phá Phật giáo? như kinh điển đã nói: Nầy Ca Diếp! Đời vị lai 500 năm sau, có hàng tương tợ Sa - Môn, y phục hình mạo giống tượng Sa - Môn mà giới luật chẳng tương tợ, định chẳng tương tợ, huệ chẳng tương tợ.
Chúng tôi thiển nghĩ, Nhất Hạnh chẳng qua chỉ là một nhà văn, một nhà thơ đã bóp méo những nguyên tắc của chân lý đạo Phật để thực hiện mưu đồ danh lợi của mình. Để thực hiện được như vậy, để thành công chớp nhoáng như vậy, để thu hút “đệ tử xuất gia gồm 18 quốc tịch và đệ tử tại gia gồm 30 quốc tịch”, Nhất Hạnh buộc phải dối trá.

***

Chương thứ tư

NHỮNG CÁI LỐ BỊCH CỦA NHẤT HẠNH

1. - Tự đề cao cá nhân mình!

Bằng những thủ pháp độc đáo cùng với khả năng biểu đạt văn chương rất đa dạng, biệt tài viêt sách và giảng pháp dễ hiểu, Nhất Hạnh đã cuốn hút quần chúng có trình độ “thường thường bậc trung”, những tu sỹ thiếu căn bản Phật học, những nhà trí thức kém tư duy và mù mờ về giáo pháp Như Lai, những người ngoại quốc khủng hoảng tâm lý… nhưng trong các tác phẩm cũng như trong các bài giảng, Nhất Hạnh luôn luôn đưa cái Ta vào và tự đề cao mình, nói về thành quả của mình - hoặc đem những sự kiện bản thân ra mà làm tiêu chí và mẫu mực để cho đệ tử và độc giả noi theo.
Trong tất cả những bài giảng và rồi sau đó được in thành sách dưới tên Nhất Hạnh, khi nào chúng ta cũng thấy phơi bày rõ ràng cái chủ nghĩa Nhất Hạnh và mẫu mực Nhất Hạnh. Điều này có thể mang lại những hiệu ứng đặc biệt đối với những người mê tín thiền sư hay là cuồng tín Sư Ông, hoặc bọn Tây Mỹ nhẹ dạ, nhưng cũng chính việc này dã khiến những người có trình độ hiểu biết Phật pháp sẽ trở nên phản cảm và đánh giá thấp trình độ Tâm linh của ông ta.
Ví dụ: Nhất Hạnh viết: Cuốn sách “phép lạ của sự tỉnh thức của tôi” đã được in đi in lại rất nhiều lầnvà đã nhận được hàng trăm ngàn lá thư của độc giả khen ngợi nhiệt liệt, có nhiều người theo phép tôi dạy và họ trở nên tỉnh giác rồi cuộc sống rồi thâu nhận được nhiều lợi ích trong việc kinh doanh... vân vân.
Nhất Hạnh nói: cuốn sách Giận (Anger) của tôi đã đươc xuất bản tại Hàn Quốc hơn một triệu bản và được xem là sách best-seller tại xứ sở này. Hoặc là: Ông cựu thủ tướng Phạm Văn Đồng đã đọc sách tôi. Ông cựu đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đọc sách tôi.
Hoặc là: Cuốn Living Buddha, Living Christ đã được phiên dịch và xuất bản tại Trung Quốc và các nước Âu Mỹ hàng triệu bản, và đã được giải thưởng. . .
Hoặc là: Ông Tiến Sỹ XYZ vốn là mục sư Tin Lành ở Đức, khi nghe tôi thuyết pháp đã xin làm lễ qui y và sau đó đã thọ 5 giới cơ bản… Ông ta đã xin phép giáo hội của ông để thuyết giảng Phật pháp vào buổi sáng và thuyết giảng thánh kinh Tin Lành vào buổi chiều…
Nghe qua những lời nói “tự bốc mình lên thấu mây xanh” như vậy, thì bất cứ thính giả nào cũng đã ngỡ rằng họ đang nghe Nhất Hạnh tự quảng cáo và tiếp thị cho mình bằng cung cách quá thô tháo và ấu trĩ. Tự mình quảng cáo và tiếp thị cho những tác phẩm của mình: đây là một hành động kì cục mà xưa nay chưa thấy vị Tổ sư hoặc giảng sư nào làm cả, ngoại trừ Thanh Hải Vô Thượng Sư!
Hoà thượng Thích Thiện Siêu nói:
Khi đã đưa cái ta vào để áp đặt, thì người khác cũng đem cái ta của họ ra để đối phó , và họ sẽ không chịu nghe mình đâu. Nếu mình vô ngã thì thính giả cũng hữư ngã. Cho nên tránh trường hợp khi thuyết pháp, cứ một chút đưa cái ta, hai chút đưa cái ta vào thì câu chuyện sẽ loãng và xa vời, không thuyết phục. Ví dụ giảng về vô ngã mà cứ đưa cái ta vào nhiều quá thì sẽ đối lập với vấn đề vừa nêu.
Nếu mình tự đề cao minh quá thì sẽ mâu thuẫn trong khi thuyết pháp. Nói vô ngã mà cứ đưa cái ta, vậy thì vô ngã của ai chứ không phải vô ngã của tôi được. Tôi là ngã chứ tôi không vô ngã được.
(Trích giới thiệu kinh Thủ Lăng Nghiêm, trang 127-128,
của HT.Thích Thiện Siêu,NXB. Tôn giáo 2004)
Nhất Hạnh có phải là bậc thánh nhân hay chăng? Nhưng chúng tôi nhận thấy Cái Tôi của Nhất Hạnh sao mà quá lớn, quá vĩ đại! Đạo Phật là con đường tu tập để đạt tới vô ngã. Mà giáo tổ Nhất Hạnh thì lại luôn luôn biểu lộ ta đây là bậc thực sự Hữu Ngã! Tất cả sự nghiệp của Nhất Hạnh đều được xây dựng trên Cái Tôi đáng ghét của ngài!
Ngài Vivekannda nói :
“Từ ngữ: “Tôi và của Tôi” này đã gây ra tất cả khốn khổ. Với cảm giác sở hữu , lòng vị kỷ đồng thời cùng đến, và vị kỷ mang theo khốn khổ. Mỗi hành vi vị kỷ và mỗi tư tưởng vị kỷ khiến cho chúng ta ràng buộc một thứ gì, và chúng ta lập tức trở nên nô lệ”.
Như vậy, Nhất Hạnh là bậc đại hiền thánh triết? hay chỉ là tên nô lệ của Cái Tôi mù loà nhưng ưa huênh hoang khoác lác về những ảo tưởng của mình?
Nhất Hạnh là bậc dẫn đường sáng suốt, hay là gã tuỳ viên của người “nữ lưu anh kiệt” thường đứng sau lưng ngài để bí mật xỏ mũi giật dây?
Xin dành câu trả lời tối hậu cho quý vị thiện tri thức!

2. - Đức Bụt và đức Phật.

Như chúng ta đã biết, từ ngữ Phật mà chúng ta thường dùng để tôn xưng đấng giác ngộ thật ra bắt nhuồn từ chữ Phạn Buddha, Trung Quốc dịch âm là Phật - đà, gọi tắt là Phật. Nhưng trước đây, người Việt Nam đã phiên âm là Bụt với ý nghĩa “ông Tiên” như được trình bày trong các truyện cổ tích, chẳng hạn như Tấm Cám, Bánh chưng Bánh dầy, Cây tre trăm đốt… vân vân… Những người hiền lương khi mắc phải tai nạn khó khăn thường khẩn cầu tha thiết, như vậy thì bụt sẽ hiện ra để cứư giúp. Từ ngữ Bụt đã đi vào quần chúng với ý nghĩa sai lệch như vậy, với hình tượng biến dạng như vậy, cho nên chúng ta không thể sử dụng chữ Bụt khi nói về đấng giác ngộ, mà chúng ta buộc phải dùng chữ Phật, hoặc chữ Phật - đà.
Lại nữa, Bụt hay Phật đều đúng như nhau, nhưng từ trước tới nay, cả ngàn năm rồi, trong sách vở kinh điển và trong cuộc sống hàng ngày, tất cả mọi người Việt Nam đều quen dùng từ ngữ Đức Phật để chỉ cho đấng Thiên nhân sư, đấng giác ngộ vô thượng mà chúng ta đang tôn thờ sùng kính và noi theo giáo lý của ngài, vậy thì cần chi phải sửa đổi một từ ngữ vốn có chỗ đứng vững chắc trong lòng mọi người dân Việt Nam? Ngay cả những người ngoại đạo, hoặc những người vô tín ngưỡng, khi tôi hỏi họ: Anh hiểu như thế nào về hai từ ngữ Bụt và Phật? Thì họ trả lời ngay lập tức: Bụt là ông tiên, còn Phật là cái ông được thờ ở trong chùa.
Nhất Hạnh tỏ ra quá cố chấp và trẻ con khi ép buộc mọi người phải gọi đấng giác ngộ là “đức Bụt”.
Nếu chúng ta nói: Giáo hội Phật giáo Việt Nam thì ai nấy đều hiểu chúng ta muốn nói đến cái gì. Giả thử chúng ta nói: Giáo hôi Bụt giáo Việt Nam, thì chẳng có ai hiểu ất giáp chi cả, mặc dù hai từ ngữ ấy đều có ý nghĩa như nhau. Nhưng bởi vì người ta quen dùng chữ Phật, thế thôi.
Trong tất cả các văn bản công truyền và cả trong các văn bản thuộc về sử liệu, giao tế, văn học, từ địa hạt Nhà nước cho đến lãnh vực tư nhân, từ trẻ em cho đến phụ lão, ai nấy đều quen sử dụng từ ngữ “đức Phật, đạo Phật”, không thể một sớm một chiều mà dễ dàng sửa đổi được. Mà sửa đổi để làm gì? Đây gọi là hiện đại hoá Phật giáo ư?
Đây gọi là đưa đạo Phật đi vào cuộc sống ư? Nhất Hạnh thật là dzổm quá mức khi muốn cải biến một cái không cần thiết với mục tiêu phô trương cái ta. Trong khi say mê bành trướng cái bản ngã phàm phu của mình, Nhất Hạnh đã cực lực khổ công sửa đổi từ ngữ Phật trở thành Bụt. Nhưng có ai vâng theo ông ta đâu, ngoại trừ những người đệ tử cuồng tín của ông ta.
Bởi vì thường xưng tán Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật đã mấy chục năm nay, và cha mẹ tổ tiên chúng tôi cũng tôn xưng như vậy, và cũng có ảnh hưởng gì đến đức tin cũng như công việc hành trì đâu? Cho nên ai cũng nực cười khi nghe Nhất Hạnh nói: Nam mô bổn sư Bụt Thích ca Mâu ni!
Thật là một kiểu lập dị rất ư là… quái chiêu! Tiền bất kiến cổ nhân, hậu bất kiến lai giả… quá ư dị dạng và rẻ tiền như thế này.

3. - Trình diễn quá đáng!

Chúng tôi không được tham dự trực tiếp buổi lễ Cổ Phật Khất Thực của Nhất Hạnh trình diễn tại Đàn Nam Giao vào khoảng đầu năm 2005, (dường như là ngày 05/03/2005) cho nên chúng tôi phải tim hiểu quay đĩa VCD. Trước hết, chúng tôi thấy rằng, Nhất Hạnh đã sử dụng thủ pháp “loạn danh, loạn thực” của Công Tôn Long để thực hiện một công trình hi hữu, đó là một buổi ra mắt một thứ công nghệ mới mẻ và hoàn hảo, gọi là “Công nghệ trình diễn và trưng bày” độc đáo nhât từ trước tới nay.
Theo truyền thống tôn giáo dù là Nguyên thuỷ hoặc Đại Thừa, hành vi khất thực là Chánh mạng, một trong những công việc thực hành pháp tu quan trọng và cần thiết nhất của người xuất gia, và khi thực hiện pháp khất thực đúng y theo bài bản Cổ Phật, thì nhà sư phải tuân thủ các điều sau:

1. - Sử dụng tam y nhất bát, nghĩa là bắt buộc phải khoác trên thân mình ba bộ y màu vàng sậm, được xem là bộ “pháp phục” bất ly thân của mình.

2. - Đầu đội trời, chân đạp đất, nghĩa là để chân trần và đầu trần, không thể đội nón hoặc bất cứ loại giày dép nào.
Ngay cả đức Phật Thích Ca thuở còn tại thế, cũng để đầu trần, dang mình dưới cái nắng chói chang của xứ sở Ấn-độ, và ngài luôn luôn di chân trần trên những nẻo đường gồ ghề, lồi lõm hoặc lầy lội ổ gà của các vương quốc Bắc ấn. Bởi vì sao? Bởi vì ngài phải tuân thủ truyền thống của Cổ Phật. Ngài đã từng tuyên bố với phụ vương Tịnh Phạn trước khi dẫn dắt những vị thánh đệ tử ra ngoài thành Ca-tỳ-la-vệ để khất thực rằng: “Dòng dõi của con chính là dòng dõi của chư Phật, con phải có sinh hoạt như chư Phật vậy”. (Xem: Đức Phật và Phật pháp, do đại sư Narada biên soạn, Phạm Kim Khánh dịch, Thành hội Phật giáo Tp.Hồ Chí Minh xuất bản)
Nhưng khi chúng tôi xem đĩa video, chúng tôi chỉ thấy lãnh tụ Nhất Hạnh cũng như chư vị tăng sĩ khởi hành từ chùa Từ Hiếu lên tới đàn Nam Giao, tất cả đều khoác áo nhật bình hoặc áo tràng nâu và đội nón lá Huế 18 vành, để thực hành pháp khất thực, và Nhất hạnh gọi đây là pháp nghi khất thực truyền thống của Cổ Phật!
Như quý vị đã biết, áo tràng cũng như áo nhật bình, chính là sản phẩm của Phật giáo Trung hoa, do chư vị tổ sư bày ra với mục đích thích ứng với cuộc sống của những người phật tử gắn liền cuộc sống tu tập với những sinh hoạt ở miền Đông độ, chứ thật ra, áo tràng và áo nhật bình thì không có giá trị truyền thống cổ Phật. Bởi vì áo nhật bình chỉ là y phục để làm việc, chấp tác và hành cước du phương, chứ không thể sử dụng vào việc chủ trì hoặc thực hiện các đại lễ Phật giáo.
Chúng ta thử để ý mà xem: Trong các nghi thức ngọ trai cử hành vào những tháng An cư Kiết hạ, chư vị Tỳ-kheo đều bắt buộc sử dụng Tam Y Nhất Bát khi thực hiện lễ “Quá Đường”. Ngoài ra, bất kỳ lúc nào và bất kỳ nơi đâu, khi hành lễ như vị tỳ-kheo tăng, tỳ kheo- ni đều phải sử dụng pháp phục tryền thống, đã được quy định bởi giới luật dành riêng cho những người xuất gia: 3 chiếc Y Vàng Sậm, không được vận nhất bình hoặc các loại y phục khác.
Dường như Đạo Tràng Mai Thôn và cả Nhất Hạnh lẫn sư cô Chân Không đều tỏ ra dị ứng với 3 chiếc y vàng sậm, mà kinh điển Phật giáo gọi đó là bộ pháy y tuyền thống từ đời đức Phật Tỳ - bà - thi cho đến nay.
Một vị thượng toạ tu tại Huế đã bị sư cô Chân Không chế giễu khi bắt gặp ngài đã vận pháp phục đàng hoàng nhân ngày Kỵ Tổ của chùa mình. Và ngài cũng kinh dị không hiểu sao sư cô Chân Không lại căm ghét bộ y truyền thống đến như vậy?
Lại nữa, xưa nay, trong lịch sử Phật giáo hơn 2500 năm nay, truyền thống Cổ Phật thì không bao giờ xảy ra sự kiện lạ đời như thế này: chư sư đội nón và mang giày ống để thực hành pháp nghi khất thực! Nếu Nhất Hạnh bảo rằng, đây là: Mấy ông sư tân thời đi khất thực, thì chúng sanh có thể nghe lọt lổ tai được, chứ làm sao gọi là Cổ Phật?
Nhìn thấy quá chướng mắt và chẳng xuôi tai chút nào!
Hoặc giả, qua những gì mắt thấy tai nghe như vậy, qua buổi trình diễn tại đàn Nam Giao hôm nọ, thì chúng ta nên gọi đó là “Thầy tu hiện đại đi khất thực” thì chính xác hơn.
Qua sự kiện nêu trên,chúng ta thấy Nhất Hạnh quả có tài năng trong việc “dùng danh loạn thực” và cả “dùng thực loạn danh”. Ai bảo rằng Nhất Hạnh là đệ tử của Nhất Hạnh thì chúng tôi sẽ phản đối đến cùng, bởi vì qua sự kiện Đàn Nam Giao này, chúng tôi mới vỡ lẽ ra rằng: Nhất Hạnh thật ra chỉ là đệ tử của Công Tôn Long, nhà nguỵ biện lừng danh của đất nước Trung Hoa thời Chiến quốc ngày xưa!
Hay là, Nhất Hạnh phải chăng là một ma đầu ngoại đạo đang cố tình chen vào hàng ngũ Tăng - già để phá hoại Phật giáo một cách thâm độc và hiệu quả nhât? Sư tử trùng thực sư tử nhục!

4.- Hạ thấp giá trị của Phật giáo:

Chúng tôi đã xem bộ đĩa VCD nhan đề: “Bốn câu thần chú” do Nhất Hạnh thuyết giảng cho các vị cư sĩ chùa Hoằng Pháp, Hóc Môn vào cuối tháng 2/2005. Nội dung bài giảng này là phương pháp chuyển hoá những người thân của mình bằng thủ pháp đặc biệt mà Nhất Hạnh gọi là “Bốn câu thần chú”, đại loại như:
…khi người thân tỏ ra giận ghét mình,thì mình sử dụng thủ pháp của Sư ông. Như là: Hãy nói với họ rằng: Anh đang gặp khó khăn, xin em hãy giúp anh. Đây là câu thần chú thứ nhất. Và: Anh đang đau khổ, xin em hãy giúp anh. Đây là câu thần chú thứ hai… Vân vân và vân vân.
Chúng tôi không tin vào sự nhận định trung thực của mình, cho nên chúng tôi đã đưa bộ đĩa này cho một chị bạn, vốn là người gốc Hà Nội và hoàn toàn chưa có ấn tượng gí về Phật pháp cả. Xem bộ đĩa VCD này xong, chị thở dài:
-Tôi cứ tưởng đạo Phật cao siêu, thâm thuý ra làm sao thì tôi sẽ xin quy y theo đạo Phật. Nhưng xem xong bộ đĩa Bốn Câu Thần Chú này, tôi thấy ông Nhất Hạnh có trình độ vô cùng kém cỏi, ngôn ngữ rất tầm thường, và giáo lý của ông ta hời hợt, nông cạn, không có chút sâu sắc như mọi người ca tụng, lại có vẻ chợ đời quá! Nhận xét của tôi là: Ông sư này đã trình bày những thủ pháp quen thuộc và hạ đẳng của Phân Tâm Học Tây phương chứ chẳng có gì gọi là đặc chất tâm linh và tín ngưỡng Phật giáo cả!
- Chúng tôi thì nghĩ rằng, qua bài giảng Bốn Câu Thần Chú của Nhất Hạnh, những người trí thức Phật giáo sẽ nhận thấy rằng:
Nếu gọi rằng, đây là ngôn ngữ giáo dục thanh thiếu niên của học giả Nguyễn Hiến Lê và Hoàng Xuân Việt trong tủ sách Học Làm Người, thì nghe ra có vẻ tạm được, chứ nếu Nhất hạnh cho đây là giáo lý của đức Phật thì… tội nghiệp cho đức Phật quá! Bởi vì Nhất Hạnh đã rao truyền một mớ bùi nhùi bòng bong do chính ông ta tưởng tượng ra, chứ không phải là giáo lý uyên thâm, giản dị mà hiệu quả của đạo Phật chân chánh như chúng ta đã học và thực hành lâu nay!

***

Chương thứ năm

SƯ CÔ CHÂN KHÔNG NGƯỜI PHỤ NỮ ĐAM MÊ QUYỀN LỰC VÀ CÓ TÂM HỒN PHÁT XÍT

1. - Lý lịch trích ngang của Sư cô Chân Không

Theo trang nhất của tờ báo Bangkok Post, đề ngày May 19, 2005, thì sư cô Chân Không tên thật là Cao Ngọc Phượng, sinh năm Mậu Dần 1938 tại Bến Tre, một thị xã nhỏ nằm giữa tiểu vùng Mekong - vùng tam giác sông Cửu Long - xuất thân trong một giai đình địa chủ thành đạt. Song thân cô có chín người con mà sư cô Chân Không là người con thứ 8. Tuy thuộc giới giàu có nhất trong vùng nhưng cha mẹ cô vốn là những người tràn đầy từ tâm và hay giúp đỡ bất kỳ những người nông dân khốn khó.
Vào thời kỳ chấm dứt cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai, Việt Minh lên nắm chính quyền và cha cô bị bắt và bị xếp vào hàng ngũ những người có quan điểm chống đối - phản động - nhưng trong khi những người địa chủ khác bị giết thì cha cô được phóng thích bởi vì ông cụ không thuộc vào loại ác ôn.
Cao Ngọc Phượng lớn lên bình thường như bao thiếu nữ khác, nhưng có đôi chút đa sầu đa cảm về những biến cố xảy ra xung quanh. Cô chưa hề có ấn tượng sâu sắc gì về đạo Phật. Sau này, sư cô Chân Không nói: Lúc bấy giờ, tôi trưởng thành mà chưa hề gặp một vị tu sỹ Phật giáo chân chánh. Quý vị thầy tu thường tụng kinh cầu siêu trong các buổi tang lễ và nhận tiền thù lao. Đối với tôi, dường như quý vị thầy tu thường quan tâm đến những việc cứu độ những người chết hơn là cứu độ những người sống, chú trọng việc độ tử hơn là độ sanh.
Năm 1959, Cao Ngọc Phượng có dịp tham dự một loạt buổi thuyết giảng của thượng toạ Nhất Hạnh tại một ngôi chùa ở Sài Gòn, và quan điểm của cô được chuyển biến theo lời giảng dạy của Nhất Hạnh về công cuộc hiến mình cho các công tác xã hội mà vẫn giữ được tinh thần đạo Phật. Những người thực hiện đạo Phật hiện đại hoá hoặc đưa đạo Phật đi vào cuộc sống thì được Nhất Hạnh gọi bằng một quỹ từ “dòng tu Tiếp Hiện”. Theo lời nhận định về sau của Cao Ngọc Phượng, thì: Thượng toạ Nhất Hạnh chính là bậc thầy mà tôi từng kiếm tìm lâu nay”.
Từ đó, Cao Ngọc Phượng trở thành người trợ thủ đắc lực và thân thiết của Nhất Hạnh trong tất cả mọi công việc. Đương nhiên buổi đầu tiên thành lập Phương Bối Am cho đến khi mã đáo thành công với sự kiện xây dựng Đạo Tràng Mai Thôn cũng như các đạo tràng khác trên khắp thế giới. Những tư tưởng này sẽ trở thành khái niệm về một loại hình Phật giáo tạp lục rất chi là hiện đại, tất cả đều có bàn tay góp sức của Cao Ngọc Phượng.
Như hình với bóng, Cao Ngọc Phượng luôn luôn bám sát cuộc sống và cận kề sự nghiệp của Nhất Hạnh, ngay cả những lúc thăng trầm nằm gai nếm mật, bất kỳ lúc nào cũng có sự hiện diện của Nàng. Dường như Nhất Hạnh không thể nào thiếu Nàng và Nàng cũng không thể thiếu Nhất Hạnh. Một định mệnh vô hình đã làm cho hai nhân vật kiệt xuất này gắn kết với nhau.
Chàng là anh hùng cái thế, mà khát vọng là trùm lấp thiên hạ, Nàng là gái thuyền quyên tuy hơi xấu xí một chút nhưng có tài năng vô song vô đối, cả hai nhân vật này đã kề vai sát bước trên con đường mưu đồ cải biến cuộc nhân sinh buồn tẻ này.
Trưòng Thanh niên Phụng sự xã hội thất bại, lò lửa chính trị của Sài Gòn cũ thì như muốn đốt cháy tất cả những ai khác chính kiến với Mỹ Thiệu, và guồng máy chiến tranh sẵn sàng nghiền nát bất cứ đoàn thể nào chủ trương hoà bình, Nhất Hạnh lâm vào thế bị động, buộc phải đào tẩu sang Mỹ dạy học, thì qua năm sau, 1967, Cao Ngọc Phượngcũng bay sang. Khi Nhất Hạnh bận rộn với các công tác “phản chiến” như sách động biểu tình, soạn thảo và in ấn tài liệu chống chiến tranh, hội thảo, tiếp xúc các nhân vật đầu não,... thì Cao Ngọc Phượng luôn luôn sát cánh chia ngọt xẻ bùi, sống chết có nhau.
Khi Nhất Hạnh sang Pháp định cư và dễ bề hoạt động chính trị hơn, thì Cao Ngọc Phượng cũng bám sát không rời. Hai người cùng thuê một lâu đài để ở, và Nàng bây giờ là Chánh Văn Phòng của lãnh tụ Nhất Hạnh, là cánh tay phải của Sư Ông, là đệ tử thân thiết của thiền sư, là đồng chí đắc lực và tin cậy, chuyên trách về tất cả tác vụ đối ngoại. Nhất là khi Nhất Hạnh bị các kiều bào Việt Nam tại Pháp bỏ rơi, thì nhìn quanh quẩn, ngó lui ngó tới, rốt cuộc cũng chỉ có Nàng là không hề xa rời Ngài. Và chuyện gì phải xảy ra thì sẽ xảy ra. Hai người sống chung như vợ chồng dưới một mái lâu đài. Họ có với nhau hai đứa con, như chúng tôi đã trình bày trong chương trước.

2. - Khi thiền sư đề cao vợ mình quá mức!

Theo kiến thức hẹp hòi của chúng tôi, từ ngàn xưa cho đến bây giờ, trên hành tinh chật chội này chưa từng xuất hiện vị giáo chủ nào mà tán dương khen ngợi vợ của mình hết sức như vậy, bằng những lời nói hoa mỹ, cao siêu, dứt tuyệt ngôn ngữ như vậy.
Chỉ có Nhất Hạnh mới đủ xuẩn động và trân tráo “mặt dày hơn cái thớt” mới có thể sử dụng từ ngữ Phật giáo và vốn liếng văn học của mình để khen ngợi mụ vợ.
Chúng ta hãy đọc ngay nơi trang nhất của tờ Băngkok Post, Nhất Hạnh nói bằng tiếng Anh:
Chan Khong is a boddhisattva, a saint of compasson.
(nghĩa là: sư cô Chân Không là một vị Bồ-tát, bậc đại sỹ của từ bi.)
Và: My student are also my teacher. I learn so much from them. Sister Chan Khong (True Emptines) is among the foremost of these. (she) has a great capacity for joy and happines. That is what i appreciate most in her life. Her unwavering faith in the dharma is strengthened each day as she continues to enjoy the fruit of transformation and healing born the practice.
Her stability, joy, happiness are wonderful supports for many of us in Plum Village and in the circle of the greater “sangha”. Working fore social change and helping people are sources of joy for her. The love and concern that underlie her words. Her whole life is a dharma talk.
Tạm dịch: “Đệ tử của tôi chính là thầy của tôi. Tôi học hỏi khá nhiều từ nơi họ. Sư cô Chân Không “Trống Rỗng Thực Sự” là một người nổi trội nhất trong số họ. Chân Không có năng lực lớn lao về việc thể hiện niềm an lạc hạnh phúc cho tha nhân. Đây là điều tôi đánh giá cao nhất về cuộc sống của cô ta. Niềm tin vững chãi của cô ta về chánh pháp đã được củng cố hàng ngày khi cô ta tiếp tục tận hưởng thành quả của cuộc chuyển hoá và trị liệu phát sanh từ việc tụ tập. Sư cô Chân Không chính là sự an tĩnh, niềm hỷ lạc, là chỗ nương tựa cho phần đông chúng ta trong Làng Mai và trong đoàn thể tăng thân Làng Mai. Làm việc cho những công tác xã hội và giúp đỡ người khác chính là nguồn vui đối với Sư cô Chân Không. ẩn dấu dưới tầng sâu của những công việc hàng ngày, đó là tình thương và sự quan tâm của cô ta đối với người khác.
Chân Không tức là Trống Rỗng thực sự và cũng là Tình Thương thực sự. Câu chuyện về cuộc đời của sư cô Chân Không thì không diễn tả được bằng lời nói. (Bất khả tư nghì). Toàn bộ cuộc đời nàng chính là một bài pháp thoại sống động.
Mà sư cô Chân Không là nhân vật nào, thì tất cả mọi người đều đã rõ, cần chi ngài phải hao hơi tốn sức để ca ngợi bằng ngôn ngữ quảng cáo sặc mùi Mại Võ Sơn Đông chẳng kém chi các trò hề lừa bịp dân đen trên màn ảnh tivi, mà chúng ta bị thưởng thức hàng đêm hàng ngày ?

3. - Vai trò của Sư Cô Chân Không trong sinh hoạt Làng Mai

Nhất Hạnh quả thật vô cùng táo tợn khi đưa bà vợ của mình sang Ấn Độ rồi đến tận thánh địa Linh Thứu mà trong kinh điển Phật giáo còn gọi là núi Kỳ-xà - quật thành Vương xá ngày xưa, để làm lễ cạo đầu (Thế phát) cho nàng và sau đó, truyền giới Tỳ-kheo ni cho nàng tại đỉnh núi này! Ngài giáo chủ Nhất Hạnh đặt pháp danh cho vợ mình là Chân Không, tiếng Anh là True Emptiness.
Từ đó, Chân Không luôn luôn tháp tùng đức giáo chủ Nhất Hạnh trong tất cả sinh hoạt tôn giáo lẫn đời thường.
Điều đáng nói là, sư cô Chân Không tham dự vào cộng đồng Làng Mai với tư cách “Hoàng Hậu buông rèm nhiếp chính” còn như vua chỉ làm hư vị mà thôi! Nghĩa là sư cô Chân Không luôn luôn chi phối và điều động tất cả hành vi của giáo tổ Nhất Hạnh cũng như sinh hoạt Làng Mai như là vị Lãnh tụ vô hình, giáo chủ giấu mặt. Nói cách khác, Chân Không luôn luôn giật dây tất cả và đưa ra mệnh lệnh buộc mọi người trong Làng Mai phải tuân theo. Kể cả Nhất Hạnh nữa.
Sư cô Chân Không cũng làm thơ, viết sách, dạy dỗ, nhất là tổ chức và điều hành Tổng Công Ty Sản Xuất Tâm linh có chi nhánh ở nhiều quốc gia trên thế giới. Mệnh lệnh do Chân Không đề ra vẫn được chư vị đệ tử trong Làng Mai chấp hành nghiêm túc như là thánh chỉ của Đại Giáo Chủ Sư Ông.
Sư cô Chân không đã từng lắm lần bay sang Canada thuyết giảng và, viết nhật ký tu học, làm công tác tổ chức giáo đoàn như là thành lập Làng Cây Phong, tổ chức, điều hành công việc Phật sự và thuyết giảng tại tu viện Kim Sơn ở Los Angles vân vân… cũng như thuyết giảng tại các đạo tràng khác.
Vị Tỳ - kheo ẩn danh, tác giả của bài viết “Nhận định về giáo lý Làng Mai” đã cho biết :
Sư cô Chân Không không cho thầy Nhất Hạnh giữ điện thoại, email, tiền bạc… thì thầy Nhất Hạnh nói đó là do ”Thầy tự tại không vướng mắc”.
Sư cô Chân Không không cho thầy Nhất Hạnh tiếp khách, thì thầy giải minh rằng: “Thầy được sư cô bảo hộ chu đáo!”.
Sư cô Chân Không cố tình hạn chế quyền lợi của tăng ni Làng Mai, thì thầy Nhất Hạnh giải thích: “Tuy không có địa chỉ hay điện thoại riêng, nhưng quý thầy cô ở Làng Mai chấp nhận một cách hoan hỷ. Tại vì đó không phải là hạn chế tự do, mà là một phương pháp thực hành uy nghi để bảo hộ tự do!”.
Ngoài ra, sư cô Chân Không còn quyết định mọi kế họach, nhân sự, và kể cả đưa ra giáo lý cho thầy Nhất Hạnh giảng dạy.
Qua những điều như vậy, cho thấy sư cô Chân Không là người rất nguy hiểm, tuy là người đứng đằng sau nhưng luôn luôn chỉ đạo cho thầy Nhất Hạnh trong tất cả mọi vấn đề.
Tại sao chúng ta không thắc mắc: Làm thế nào mà sư cô Chân Không lại chỉ đạo cho Nhất Hạnh được? Nếu ngài không mê Nàng thì làm sao Nàng dám lộng quyền như thế? Chuyện trong tổ chức tôn giáo mà xem ra cũng chẳng khác gì chuyện bí mật hậu cung!
Như vậy, sư cô Chân Không là một người phụ nữ có bản lãnh gan lì hiếm thấy chẳng kém gì Từ Hi Thái hậu, có ý chí lãnh đạo và tham vọng “muôn năm trường trị, nhất thống giang hồ” như Võ Tắc Thiên, có tánh cách “độc tài quyền lực” của bà Thatcher, có tánh cách đồng bóng như Thanh Hải vô thượng sư.
Pháp “Hiện tại lạc trú” do đức Phật thuyết giảng trong kinh tạng Pali, nay được trình bày và sửa đổi qua tài nghệ văn chương của một nhà văn kiêm thi sỹ thì chắc chắn là độc đáo, mới lạ và hấp dẫn. Những cuốn Trái tim mặt trời, Phép Lạ của Sự Tỉnh Thức, An Trú Trong Hiện Tại, Hoa Sen Từng Cánh Hé… đã mở đầu cho việc khai sinh ra một Sư Ông Nhất Hạnh hoàn toàn khác xưa.
Cao Ngọc Phượng tỏ ra là một cánh tay phải vô cùng đắc lực và nhiệt thành trong việc lôi cuốn, vận động thanh niên thiếu nữ tụ họp dưới trướng Sư Ông. Với khả năng nhạy cảm và sức chịu đựng dẻo dai của người phụ nữ Nam bộ, cùng sở học cùng văn hoá phong phú Tây phương, Cao Ngọc Phượng đã giúp Nhất Hạnh gầy dựng lên một tổ chức khá hoàn chỉnh, tương tự như cộng đồng tâm linh “Ashram” của thánh Gandhi ở Ấn- Độ. (Tiền thân của Làng Mai ngày nay).
Nếu Nhất Hạnh là Bố Già, là Ông Trùm Mafia, thì sư cô Chân Không là consigliori, quân sư đặc biệt luôn luôn cập kè bên Ngài.
Đương nhiên, sư cô Chân Không sẵn sàng thừa kế sự nghiệp vương bá, sau kho ông Trùm Nhất hạnh qua đời trong vài ba năm nữa.
Người gây ra pháp nạn cho thế kỷ 21 chính là Nhất Hạnh? Hay là sư cô Chân Không?
Câu trả lời tối hậu vẫn luôn luôn dành cho quý vị thiện chi thức!

***

Chương thứ sáu

THIỀN SƯ DỐI TRÁ

Ngoạn ngữ Pháp: “Toute medaille a son revé”, nghĩa là: tất cả tấm hân chương đều có mặt trái của nó. Nguyễn Huy Thiệp, nhà văn Việt Nam nói: “Vinh quang nào mà chẳng xây trên điểm nhục?”(Vàng lửa).

1). Điều dối trá thứ nhất:

Tự phong chức vị Thiền sư cho mình!
Tại đất nước Việt Nam hiện thời, có hai vị thiền sư nổi tiếng, không phải do giới hạnh, đực độ và công phu tu tập bản than – mà do… chính mình tự phong cho mình. Đó là Hoà Thượng Thanh Từ và Hoà thượng Nhất Hạnh. NHững người Việt Nam yêu mến giáo lý giải thoát của đức Phật Thích Ca đã gọi hai vị anh hung có tài vương bá này là Hai vị Thiền sư Tự phong, sản phẩm của tâm linh độc đáo Việt Nam, bởi vì trong lịch sử Phật giáo thế giới xưa nay chưa hề xuất hiện một sự kiện hiếm thấy như vậy bao giờ.
Ngày xưa, ngài Huệ Năng, một bậc giác ngộ của tông môn được truyền thừa từ ngài Hoằng NHẫn, cũng không bao giờ tự xưng là Thiền sư này nọ. Lúc nào cũng xưng rằng: “Năng tôi…” hoặc “Năng này vốn là người thô lậu nơi thôn dã…” (Xem Pháp Bảo đàn). Sau khio ngià thị tịch, hoàng đế nhà Đường thời bấy giờ sắc phong Danh hiệu Đại Giám Thiền sư. Dường như đến đời Minh ngài lại được truy phong danh hiệu “Đại Giám Hộ Quốc Thiền sư”.
Như vậy, từ ngữ Thiền sư là một danh hiệu vô cùng cao quý, chỉ dành riêng cho những bậc Giác ngộ thiền cơ cao thâm, có khả năng dẫn dắt chúng sanh trên con đường thiền định cho đến chứng ngộ rồi truyền ấn cho thế hệ kế tiếp - và không phải ai cũng lạm xưng được. Thế mà Nhất Hạnh tự phong cho mình là Thiền sư mà chẳng hề biết ngượng ngùng, hổ thẹn (đạo Phật gọi là “con người không biết tàm quý”). Nhất là Nhất Hạnh đã phạm giới “Bất Dâm”, một trong 4 đại giới của nhà Phật (4 Ba - la - di giới). Bất cứ người Phật tử nào cũng biết rằng, hễ Tỳ kheo nào phạm vào giới Dâm thì bị gọi là phạm giới Tăng Tàn, buộc phải trục xuất ra khỏi thiền môn và xoá tên khỏi đoàn thể Tăng gia ngay lập tức.
Dẫu đã mất giới rồi, bản than không còn là tu sỹ Phật giáo, nhưng Nhất Hạnh lại còn đứng chủ trì những giới đàn để truyền trao giới pháp cho những người khác, những đệ tử của mình! Dưỡng như đây là sự kiện hiếm thấy trong một tôn giáo luôn luôn đề cao Giới Định Tuệ, những giá trị cơ bản để tiến tới giải thoát, như là đạo Phật.
Huống chi, tất cả nhưng người Phật tử Việt Nam có tham khan chút ít kinh điển hoặc sách vở, thì đều biết rằng, một hành giả (dù xuất gia hay tại gia) tu tập thiền định nếu đã giác ngộ thực sự và có sự phụ ấn chứng, thì mới đựơc phong tặng danh hiệu Thiền sư, còn nếu là người đang còn mò mẫm tu hành, tự học hỏi và tự chime nghiệm bản than thì chỉ được gọi là Thiền sinh hoặc Hành giả Thiền môn mà thôi. Phật giáo luôn luôn tuyên dương những quy tắc đặc thù, nghiêm minh, bất di dịch, nhất là Thiền Tông cũng luôn luôn có sẵn những khuôn phép, lề thói theo truyền thống cả ngàn năm nay. Chúng ta nên nhớ rằng, Đạo Phật không phải là “một chủ nghĩa lộn xộn, tạp lục”, khiến bất cứ ai muốn tự tôn xưng bản thân ra sao cũng được, như thế thì cuộc đời sẽ loạn mất, đạo Phật sẽ sớm bị huỷ diệt bời những người tăng sỹ đại cho Như Thật Đạo.
Thong nhều kinh điển do đực Phật để lại chúng ta còn nhớ câu: “Sư tử trùng thực sư tử nhục” (Nghĩa đen: chỉ có những con trùng trong thân xác con sư tử mới ăn thịt của con sư tử mà thôi; nghĩa bóng: Chỉ có những người xuất gia, thành viên của đoàn thể tăng già mới có thể huỷ diệt đạo Phật nổi mà thôi, ngoài ra bất cứ chúng sanh nào cũng không thể làm rối loạn đạo Phật được).
Quả thất như thế, chỉ có những người có cái đam mê “chọc thời khuấy nước” như Nhất Hạnh mới có đủ khả năng và uy lực làm cho đạo Phật suy tàn ngay trong lòng đạo Phật! Thay vì đưa đạo Phật đi vào cuộc đời như Nhất Hạnh đã lớn lối chủ trương, thì với tư cách “nhà sư phạm giới, lấy vợ, có con” Nhất Hạnh đã làm hoen ố hình ảnh cao thượng của tăng già, rối loạn kỷ cương đạo Phật và ắt sẽ sớm xô đẩy Phật giáo xuống dộc huỷ diệt trước cả thời kỳ mạt pháp nữa! Điều này không hề xa lạ với những người Phật tử đã may măn thọ lãnh giới pháp dành cho hàng cư sỹ, như là Thập thiện hoặc Bồ tát Tại gia. Chúng ta hãy lật đằng sau Chứng chỉ Thọ giới, luôn luôn được ghi rõ mất hang chữ như là để răn đe vừa là sách tấn: “giới luật còn, Phật pháp còn”.
Ni sư Trí Hải, bậc trương phu nữ lưu khả kính, đã phát biểu:
…cũng như trong Phật giáo,thiền sư tự phong mà không có thấy ấn chứng thì gọi là bang môn rả đạo, ta ma ngoại đạo cả!
… Cho nên không phải ai cũng cók thể tự xưng “thiền sư” hoặc xưng “tổ sư” cả đâu! Xét theo tiểu chuẩn chính thống, thì phải bái kiến một bậc thầy đã chứng ngộ, rỗi xin vị này ấn chứng cho mình.
Đây không là chủ trương của cá nhân Ni sư Thích Nữ Trí Hải, mà còn là chánh kiến của đạo Phật nói chung và của truyền thống Thiền tông nói riêng. Theo quan điểm này, thì chúng ta phải xác nhận rằng, Nhất Hạnh phải chằng là kẻ tu hành nguỵ tín, một thiền sư chân chính, một bậc vương bá trong giới chính trị đang lợi dụng chiếc áo tăng sỹ và năng lực Tam bảo để thực hiện mưu đồ của mình, hay là một Ma vương khoác y bá nạp? Xin dành câu trả lời cho quý vị.

2. Điều dối trá thứ hai: Có vợ mà làm ra vẻ thanh khiết, đạo đức:

Như quý vị đã biết, một người được gọi là Tỳ kheo khi người ấy chấp hành 250 giới, trong đó có 4 giới căn bản là: Sát sanh, trộm cắp, dâm dục và dối trá (Sát, Đạo, Dâm, Vọng). Nếu lỡ phạm vào 4 giới này, thì chắc chắn bị trục xuất, không thể xám hối hoặc khoan hồng gì cả. Nhưng sau một thời gian hoàn tục, nếu vị ấy muốn xuất gia trở lại thì buộc phải khởi hành lại từ bước đầu. Nghĩa là nếu xuất gia lần nữa thì phải làm một vị sa di tập sự (tức là hành điệu trở lại), và qua nhiều thử thách, sẽ được thọ lãnh pháp giới Sa di, rồi tuần tự thọ lãnh giới pháp Tỳ kheo. Đằng này, Nhất Hạnh đã lấy vợ, sanh con, nhứng dấu giếm không muốn cho bất cứ ai hay biết, cho nên luôn luôn tỏ ra mình vẫn còn trong sạch, giữ giới nghiêm chỉnh, lại còn đóng vai Giáo chủ, trao truyền Tam Quy, Ngũ giới cho hành tại gia, rồi lập đại giới đàn truyền thụ Tỳ kheo giới cho chư tăng ni…. Khi rao giảng, Nhất Hạnh luôn luôn đứng trong vị thế của một Tỳ kheo gương mẫu, chân chính.
Nhưng, thứ quý vị, chuyện đời không thể bưng bít được tai mắt thiên hạ mãi, trong khi Nhất Hạnh có rất nhiều “fans”(kẻ ái mộ), nhiều kẻ thù, nhiều đối thủ chính trị và cả những người tò mò. Tại sao như vậy? Bởi vì Nhất Hạnh là một nhà viết sách bán chạy nhất thế giới, một ngôi sao trong nên trời Phật học, một chiến sỹ chính trị tùng đấu tranh cho hoà bình Việt Nam và nhân loại, một nhà văn, nhà thơ lừng danh Việt Nam và quốc tế, một thiên tài thế kỷ…
Trong khuôn mặt của Nhất Hạnh chúng ta thấy rõ những đường nét yếu đuối, thiếu dũng khí thường có nới các vij thiền su giác ngộ chân chánh, những làn khí phiền não, nhưng dấu ấn trăn trở, ưu tư, xao động.
Nói tóm lại, khuôn mặt của Nhất Hạnh không phải là khuôn mặt của một thiền sư chân chánh. Bời vì… ngài lỡ có vợ và lỡ có con.
Tuy dạy dỗ chúng sanh nào là “Hít vào tâm tĩnh lặng, thở ra miệng mỉm cười…”, nhưng bản thân ngài làm sao tĩnh lặng cho nổi khi luôn luôn lo sợ mọi người biết được “vết sẹo to lơn không thể nào quyên” trong cuộc đời mình?
Một vị thiền sư chân chánh thì dù muốn hay không, cũng mang khuôn mặt an lành, hành vi tự tại, dung nghi luôn luôn ánh lên nhưng tua hào quang trí tuệ, làm êm dịu và mát mẻ thân tâm của thính giả. Nhất Hạnh có đôi vai xuôi rất nữ tính, và giọng nói yếu ớt, yểu điệu, nhè nhẹ rất pê - đê (chẳng mang chút đặc chất tâm linh nào!): hai yếu tố này chứng minh rằng, Nhất hạnh có dáng dấp của một vị thái giám về già, tâm lý bệnh hoạn và lập dị, kiêu ngạo, kỳ cục – hơn là một thiền sư đầy phước lạc và trí tuệ, sãn sàng ban phát tài năng lực tâm linh cho chúng sanh.
Chưa kể giọng văn mượt mà như tiếng thì thầm của khuê phụ ức chế trong phòn the lạnh giá.
Hay phải chăng đây à định mệnh tâm linh khốn khó của người Phật tử Việt Nam, số phận tất yếu khiến quê hương này chỉ sản sinh ra những gã “ thái giám lên mặt rao truyền một thứ đạo Phật méo mó, đậm mầu sắc trấn lột tâm linh?” Hỡi ôi,, đất nước này đã sinh ra Ông Đạo Ở Truồng, Ông Đạo Ớt, ÔNg Tám Lương Sỹ Hằng, rồi Thanh Hải vô thượng sư, rồi Ông Tư sự Nhịn Đói Uống Nước Lạnh, Ông Đạo Hú,… Thiền sư Nhất Hạnh nữa!

3. Điều dối trá thứ 3: Ngôn hành bất nhân.

Năm 2004, được phép của chính phủ nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, đại diện Giáo hội Phật giáo cử hai vị Thượng tọa Giác Quang và Hải Ấn (xuất thân tử Tỉnh giáo hội Phật giáo Thừa Thiên Huế), để sang Pháp cung thỉnh Hoàng thượng Nhất Hạnh trở về thăm quê hương.
Và dĩ nhiên sau nhiều thời gian thảo luận thú vị, Nhất Hạnh đồng ý về Việt Nam, để thăm quê nhà, còn có mục tiêu chính yếu là “Trị liệu và Hoá giải:. Khi hai vị thượng toạ Giác Quang và Hải Ấn đặt chân đến Đạo tràng Mai Thôn, thì Nhất Hạnh trân trọng thỉnh mời hai vị này ngồi lêne pháp toà để toàn bộ để tử của Làng Mai cử hành đại lễ, cung kính lạy sát đất. Nhất Hạnh giải thích:
- Mời hai vị đại diện tất cả chư tôn đức hiện đang tu hành tại Việt Nam, để chúng tôi được đảnh lễ. Nhờ công đức tu hành của chư vị tôn túc làm bệ phóng cho chúng tôi vân du hoàng dương Phật pháp khắp năm châu bốn biển. Quý vị tôn túc trong Giáo hội Phật giáo Việt Nam chính là cơ sở vững chắc để cho chúng tôi nương tựa mà thực hiện các công việc Phật sự trên toàn thể thế giới.
- Với thái độ tri ân nồng nhiệt như vậy, dĩ nhiên hai vị thượng toạ phải tuỳ thuận, lại còn tỏ ra vô cùng thâm cảm thái độ tri ân và hiểu biết của Nhất Hạnh cũng như tăng thân Làng Mai. Câu chuyện này chúng tôi nghe kể trước khi Nhất Hạnh trở về Việt Nam.
Thế nhưng, mấy tháng sau, khi về đến chùa Từ Hiếu, một trong buổi diễn giảng, Nhất Hạnh đã công khai chỉ trích những người mà Nhất Hạnh gọi là “tôn túc tiền bối” ấy. Khi bàn về nền giáo dục đào tạo của Phật giáo đối với chư tăng ni Nhất Hạnh nói: - Chư vị tôn túc của giáo hội Phật giáo Việt Nam xưa nay không có đường lối giáo dục tốt đẹp, không biết đào tạo tăng, ni. Cho nên giáo hội hiện nay đã sản sinh nhiều tăng ni không xứng đáng. Chứng cớ là hang năm tại bệnh viện Từ Dũ đã có mấy chục vị ni đến nạo thai, phá thai. Sự kiện này chứng tỏ rằng nền giáo dục của chư tôn túc tiền bối là bất cập, lỗi thời, kém cỏi…
Lời tuyên bố này đã làm chư vị lãnh đạo Phật giáo Việt Nam trở nên bất bình, phiền muộn không ít. Chúng tôi đã gặp một vị chức sắc trong giới lãnh đạo Phật giáo Huế, (xin miễn nêu pháp hiệu) ngài nói: “Trước đây, tại nước Pháp, ông Nhất Hạnh tuyên bố và đề cao công phu tu hành của chư tôn túc tiền bối Việt Nam, cho nên ai nấy đều phấn khởi trước niềm tri ân và trân trọng của ông ta. Dù muốn hay không Nhất Hạnh cũng đã trưởng thành từ cái nôi tâm linh của quê hương Việt Nam mến yêu. Nhưng nay về nước, ông ta lại lên tiếng chê bai chư vị thiền đức trong giáo hội đã không biết gáo dục và đào tạo tăng tài.
Thế thì chúng tôi xin hỏi ông Nhất Hạnh một câu Chư vị Thích Trí Tịnhm Thích Trí Quang, Thích Minh Châu, Thích Trí Quảng, Thích Thiện Siêu, Thích Đôn Hậu, Thích Mãn Giác, Thích Đức Tâm,…Tất cả những vị cao tăng thạc đức ấy đã trưởng thành từ nên giáo dục nào? Cái nôi nào đã nuôi dưỡng và thành tựu sự nghiệp tâm linh của chư vị ấy? Còn bản thân Nhất Hạnh thì hơn mười năm tu học tại Từ Hiếu và hơn 5 năm tu học tại Phật học đường Nam Việt nữa, thì sao? Nền giáo dục nào đã đào tạo ra Pháp thân Tuệ mạng của tăng sỹ Nhất Hạnh?”
Hỏi tức là đã trả lời!
Chúng tôi nhận thấy rằng: Cái ngã chấp to lớn của Nhất Hạnh đã khiến ông cao ngạo thái quá, luôn luôn tỏ ra khinh khi các vị tôn túc tiền bối và nền giáo dục truyền thống. Nhất Hạnh cho rằng, chỉ có nền giáo dục của Làng Mai (do ông sáng lập) mới là hoàn chỉnh, đã được hiện đại hoá, phù hợp trào lưu công nghiệp vi tính hiện nay. Chỉ có Nhất Hạnh mới có đủ tài năng và uy lực để cải cách nền giáo dục Phật giáo Việt Nam!
Với chút năng lực của nhà sư phạm giới, với tài văn thơ và chút kiến thức Nikaya, Hán tạng, chút vốn liếng Pháp ngữ, Anh ngữ nào đó, rồi pha trộn giáo pháp Krishnamurti,… với hàng chục ngàn đệ tử nhếch nhác đủ mọi quốc tịch, Nhất Hạnh ảo tưởng rằng mình có thể thiết lập một nền giáo dục và đào tạo thực sự tốt đẹp hơn cho Phật giáo Việt Nam hiện nay ư.
Quá đáng hơn nữa, ông ta lại còn tố cáo và dè bửu sự việc “các ni cô nạo thai tại bệnh viện Từ Dũ, vân vân…”. Như vậy, ta nên hiểu rằng, tất cả những lời ngợi khen tốt đẹp của Nhất Hạnh trước đây, đều đã đổ xuống song, xuống biển cả!
Nhanh như tên bắnm nhanh hơn lực sỹ Na-la-diên co duỗi cánh tay, những lời tuyên bố nêu trên của Nhất Hanh ngay tức khắc được lan truyền trong Ni giới. Tất cả những thành viên của tập thể Ni gới Huế tỏ ra vô cùng phẫn nộ, uất ức.
Chúng tôi đã ngẫu nhiên bái kiến Ni trưởng X, một vị trượng phu nữ lưu chân chánh, khá nổi tiếng trong công tác từ thiện. Sau khi thuật lại lời tuyên bố “khống có chút gì của hiểu và thương” của ngài Nhất Hạnh, Ni trưởng X đã thổ lộ với thái độ bất bình rất rõ:
- Ngài Nhất Hạnh cũng phải biết rằng, trong một tập thể nếu có một số người lầm lỡ, sai phạm – cũng chỉ là sự kiện bình thương. Không lẽ vì vậy mà chúng ta phủ nhận luôn cả sự tồn tại của cả tập thể ấy và chê bai dè bỉu nền giáo dục mà tập thể ấy đã thừa hưởng, thọ nhận hay sao?
- Ví dụ: trong tôn giáo bạn, nếu xảy ra sự kiện vài vị nữ tu mang bầu hay phá thai, thì không lẽ chúng ta kết luận rằng: “Tôn giáo ấy có nên giáo dục không tốt? Các vị chức sắc của tôn giáo ấy đã không hoàn thanh trách nhiệm giáo dục và đào tạo của mình?”
Quy nạp vỗi vã như vậy là kém trí tuệ và thiếu từ tâm. Ngài luôn rêu rao cái chủ nghĩa “Hiểu và Thương”, vậy mà ngôn hạnh của ngài chẳng có gì gọi là hiểu và thương chi cả. Điều này chứng tỏ ngài kém tu, kiêu căng, không có tầm nhìn khoan dung và sâu sát về toàn cảnh Phật giáo Việt Nam. Dẫu sao, ngài mới về thăm quê hương không bao lâu. Huống chi, ngài bị… ngài…
Chúng tôi thấy vị Ni trưởng này tỏ ra lúng túng và e dè… dường như ngại đụng đến một vài cấm kỵ nào đó, không thể trình bày hết quan điểm của mình, tức khắc chúng tôi nối lời: (cười)
- Huống chi, ngià bị… phá giới, cà có vợ và có con. Phải không?
Thưa ni sư! Ni sư không dám nói ra bời vì sợ bị vi phạm Bát Kỉnh Pháp chứ gì? Chúng tôi là đệ tử chân chánh của một tôn giáo gọi là Như Thật Đạo, đã từng trả giá rất đắt cho niềm tin của mình cho nên chúng tôi không hề sợ hãi già cả. Nếu cần đi vào địa ngục để tìm kiếm và phát hiện chân lý thì chúng tôi cũng không hề từ nan…
… Ông Nhất Hạnh có vợ có con rõ rang, ai mà không biết? Trên internet có đủ loại Website trưng bày tất cả nhưng cái xấu xa, dối trá, rởm rang, đỏm dáng của thiền sư Nhất Hạnh. Làm sao ai có thể che giấu cho được?

4. Điều dối trá thứ tư: Nhất Hạnh và Hoá giải.

Chúng tôi không biết Nhất Hạnh đã hoá giải được nhưng gì và hoá giải như thế nào, ra làm sao. Nhưng chúng tôi xin tường thuật lại sự kiện sạu đây để quý vị suy ngẫm, và mỗi người tự tìm đáp án riêng cho mình.
Trong buổi thuyết trình về “Tương lai đạo Bụt tại Âu châu, Mỹ châu, Úc châu” tại Học viện Hành chính Thành Phố Hồ Chí Minh, Nhất Hạnh trả lời phỏng vấn như sau:
- Năm 1980, khi tôi nghe tin một bé gái 12 tuổi vượt biên và không may bị hải tặc hãm hiếp tới chết. Tôi vô cùng xúc động và đau đớn khôn nguôi. Sau một đêm thiền hành và quán tưởng, sáng hôm sau, tôi đã tha thứ cho tên hải tặc ấy.
“Tôi nghĩ rằng, nếu tôi được sanh ra trong hoàn cảnh ấy, tại xứ sở nghèo đói ấy, có cha mẹ thất học, môi trường ngu dốt, không có ánh sang văn minh…vân vân… thì khi lớn lên tôi cũng có thể trở thành một tên hải tặc. Cho nên sau một đêm quán chiếu rất rõ, tôi hoàn toàn tha thứ cho tên hải tặc và nếu là người phụ nữ bị hãm hiếp đến mang thai, thì tôi có thể dùng tình thương để ôm giữ cái thai và không bao giờ thù hận (trích dẫn vắn tắt)”.
Rồi trong những bài giảng khác, Nhất Hạnh tuyên bố: “Nhiều người trách tôi tại sao lại quá thân mật gần gũi những người Công giáo và những người Cộng sản. Tôi tuyên bố rằng,“Phép thực tập của tôi là ôm lấy được cả những người Cộng sản và những người Công giáo”.
Qua những lời tuyên bố ấy, chúng ta có thể hiểu rằng, Nhất Hạnh đã đạt được đức tánh Từ Bi (tình thương yêu rộng lớn vô phân biệt), đến nỗi Nhất Hạnh có thể “ôm giữ” tất cả mọi người vào trong lòng mình, bất kể kẻ ấy là ai, như thế nào.
Nếu được như vậy, thì chúng tôi sẽ sẵn sang gieo năm vóc xuống sát đất để cung kính đảnh lễ Ngài, một bậc thánh nhân có long từ bi vô lượng vô biên.
Nhưng sự thực thì: nói vậy mà không phải vậy. Ngài Nhất Hạnh chỉ lớn lối rao hang tiếp thị huyên náo, lộng ngôn vọng ngữ hoa hoè hoa sói để lường gạt những kẻ cả tin, khù khờ mà thôi, còn thực chất sao?
Cái ngày Nhất Hạnh từ giã chùa Từ Hiếu để tiếp tục vân du trình diễn tại Hà Nội, thì cũng là ngày 46 vị tu sỹ Phật giáo phải bị bắt buộc xách khăn gói ra khỏi chùa Từ Hiếu. Lý do: Những người này không chịu tu tập theo đường lối của Làng Mai, tức là không chịu nhận Nhất Hạnh là giáo chủ vĩ đại của họ. Hoặc là họ có chánh kiến khác biệt với chủ trương Nhất Hạnh.
Nhất Hạn đã tuyên bố: sãn sàng ôm người Công Giáo và các những người Cộng sản, vậy thì tại sao Nhất Hạnh lại xua đuổi những người an hem đồng môn của mình chỉ vì lý do: họ có chánh kiến khác với mình!
Chúng tôi không biết số phận của 46 vị tu sỹ ấy bây giờ ra sao. Nhưng qua sự kiện mà ai cũng rõ này, chúng tôi cảm thấy tức cười cho cái tài nói dối trá, nói hoa dạng bẩm sinh của ngài. Cái đức từ bi “có thể ôm giữ tất cả mọi người vô phân biệt” của ngài, chúng tôi e rằng, đó cũng chỉ là sản phẩm tưởng tượng của ngài, và do khả năng hư cấu màu mè của ngài bịa đặt ra như một thứ phù phép để ru ngủ quần chúng và kiếm chác danh lợi mà thôi.
Sự kiện 46 vị tu sỹ đuổi ra khỏi chùa Từ Hiếu dường như là kết quả của chương trình “Hiểu và Thương” do ngài chủ xướng gần mười năm nay.
Sự kiện này chứng tỏ Nhất Hạnh chẳng có gì gọi là trí tụê và bao dung trong công việc ứng xử với bọn hậu sinh của mình.
Tại sao Nhất Hạnh không vận dụng chút ít “Hiểu biết” để có thể thuyết phục và dạy dỗ họ tuỳ thuận Pháp môn của mình? Tại sao Nhất Hạnh lại không nới rộng long “Yêu thương” để có thể khoan dung và chấp nhận họ như là an hem con cháu dưới ánh sang Tỉnh Giác, do chính mình đề xướng?
Nhất Hạnh đã hoá giải cái gì, hoá giải được ai? Trong khi anh em con cháu trong nhà chỉ vì Quyền lực của chủ nghĩa Nhất Hạnh mà phát sanh oán kết, chi rẽ, nếu không nói là sẽ trở mặt đấu đá nhau trong một tương lai rất gần?
Xin kính cẩn đọc lại những dự báo của Đức Phật:
Ác tỳ kheo ấy như tục nhơn
Chứa nhiều tiền của, quyến thuộc đông
Hàng đệ tử Phật sống đúng pháp
Họ luôn đuổi xua chẳng ai ở…
(Kinh Đại Bảo Tích do hoà thượng Thích Trí Tịnh dịch, Thành hội Tp.Hồ Chí Minh xuất bản, trang 184 cho đến trang 209. Phẩm Pháp Hội Hộ Giác Quốc Bồ tát)

5. Điều dối trá thứ 5: Nhất Hạnh và Trị Liệu (Xoá bỏ Hai Thời Công Phu).

Từ lâu xa, xứ Huế nói riêng và Việt Nam nói chung, quần chúng Phật tử đã quen nhìn Phật giáo như là một tín ngưỡng, như là một nơi nương tựa cho cuộc sống của mình. Người ta đến chùa dâng hương, lễ bái và đặt bát cúng dường. Mỗi khi có duyên sự, thì Phật tử cung thinh chư tăng lập đạo trang tụng kinh niệm Phật với mục đích đơn giản là cầu an cầu siêu, hộ niệm lúc lâm chung, tang ma,…. vân vân. Đạo lý giải thoát cao siêu va thâm trầm của đức Phật dường như luôn luôn được ẩn tàng sâu kín trong những sinh hoạt mang tính cách tín ngưỡng, sung bái, cúng tế, cầu nguyện. Phật giáo đã pha trộn với nhiều tập tục bản địa.
Đây là đặc chất của một vùng cư dân do nhiều yếu tố lịch sử, văn hóa, địa dư tạo nên và đúc kết thành một truyền thống, một môi trường tâm linh đặc biệt Việt Nam, đặc biệt Huế.
Do đó, chúng ta không thể một sớm một chiều mà có thể thay đổi phương thức sinh hoạt ấy. Mà thay đổi để làm gì? Đạo Phật không bao giờ dạu tat hay đổi thế gian, cải biến thế gian.
Chúng tôi xin lập lại: Đạo Phật chỉ dạy chúng ta cải bién tâm thức bản thân. Bởi vì “Nhất thiết duy tâm tao”, giáo lý này xem như không bao giở trở nên xưa cũ cả.
Khi bản thân được chuyển hoá bằng ánh sang Như Thật Đạo, thì tất cả thể giới này sẽ được chuyển hoá theo.
Đại sư Khyentse Rinpoche đã viết:
Khi chúng ta ghĩ về mọi chúng sanh đau khổ vô vọng, chúng ta không thể giúp được gì cả ngoài cảm nhận thương cảm lớn lao đối với họ. Nhưng chỉ long thương cảm thôi thì chưa đủ, chúng ta cần giúp đỡ thực sự. Nhưng chừng nào tâm lý chúng ta còn bị hạn chế bởi sự rang buộc, chỉ cho họ thức an, quần áo, tiền bác, hay tình cảm đơn thuần, tuy là thiết yếu cho cuộc sống, sẽ chỉ mang lại cho họ niềm hạnh phúc giới hạn và nhất thời.
Nếu chúng ta muốn giải thoát họ khỏi khổ đau hoàn toàn, trước hết chúng ta phải chuyển hoá bản thân chúng ta!
(Trích “L’infini dans la Paume de la Main”, của tác giả Matthieu Ricard và Trịnh Xuân Thuận, bản dịch Việt ngữ của Lưu Van Hy, nhan đề là “Lượng Tử và Hoa sen”, NXB Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, 2005).
Nếu ngài giáo chủ thánh nhân Nhất Hạnh muốn làm bác sỹ trị liệu, mà bệnh nhân là “tâm thức cộng đồng Phật tử Huế và Việt Nam”, thì công việc trước nhất của người thầy thuốc là phải tuỳ thuận truyền thống và tập tục của họ. Và đương nhiên là phải tuỳ bệnh mà cho toa thuốc. Phật pháp có muôn triệu toa thuốc,, hà cớ gì lại phải ép buộc chúng sanh ở đay uống thứ thuốc mà bọn Tây phương quen dung? Tai sao lại bắt những người Phật tử Việt Nam gặm nhấm những món an hổ lốn và lẩu thập cẩm do ngài xào nấu và bọn đệ tử của ngài hâm mộ?
Cái “Hiện pháp lạc trú” kia cũng là xuất phát từ kim ngôn của đức Phật Thích Ca, được Nhất hạnh biến chế bằng thủ thuật văn nghệ gừng, pha trộn với triết học hiện sinh Tây phương trở thành một thứ “capsule” đóng hộp có nhãn hiệu và bao bì, được cầu chứng bởi khoa học Âu Mỹ… dĩ nhiên vô cùng thích ứng với tâm thức cộng đồng của dân Tây.
Chúng tổi hiểu vậy, cho nên chúng tôi không dám chê bai và phủ nhận giá trị hạn chế của nó. Mà có thứ thuốc ào mà không bị hạn chế đối tượng sử dụng, bệnh trangh và hoàn cảnh bệnh nhân? Phật pháp cũng tuỳ căn cơ, trình độ, hoàn cảnh địa dư, văn hoá mà thích ứng với nguyên tắc “tuỳ duyên bất biên” mà.
Như vậy, cần chi phải thay đổi Đạo Phật truyền thống của Việt Nam, bằng một thứ đạo Phật đã được Tây hoá của Nhất Hạnh?
Sự kiện chấn động dư luận Phật tử đó là: Nhất Hạnh tỏ ra vô cùng điên rồ khi bai bỏ Hai Thời Công phu, mốt sinh hoạt quan trọng nhất của người xuất gia xưa nay. Bởi vì theo nhận đinh Trí Quang thượng nhân, một người tu sỹ lỗi lạc khả kính vốn được nuôi dưỡng từ truyền thống Phật giáo Việt Nam thì: “Trí tụng Hai Thời Công phu mà thôi, một đời xuất gia cũng đẹp, khá đẹp. Có nhiều người đã và đang tự chứng minh như vậy”.
Ngài Thích Trí Quang giải thích về Hai Thời Công phu như sau: (khá dài dòng nhưng cần thiết).
Mục đich ấy là chí nguyện mà thuật ngữ gọi là Phát bồ đề tâm.
1. - Phát giác tuệ giác vô lượng bồ đề của Phật chính là bản giác của tâm chúng ta, gọi là Phát bồ đề tâm.
2. - Phát khởi chí nguyện cầu đạt cho được tuệ giác ấy, gọi là Phát bồ đề tâm.
3. - Phát huy dần dần tuệ giác ấy, gọi là Phát bồ đề tâm.
4. - Phát hiện hoàn toàn tuệ giác ấy, gọi là Phật bồ đề tâm.
Cuối cùng là:
…Thượng cầu Phật tuệ, hạ hoả chúng sanh: trên thì cầu tuệ giác vô thượng bằng cách dưới thì giáo hoá chúng sanh.
Nhưng mục đích Hai Thời Công phu chưa dung ở đây, mà còn nói: “Vì tuệ giác bồ đề mà cầu sinh Cực Lạc”. Cầu sinh có 2 mặt: Một là cầu vãng sanh Cực lạc quốc của đức Bổn tôn cho đủ khả năng để trở lại ngũ trược ác thế trước tiên mà giáo hoá; hai là cầu thực hiện Cực lạc quốc ngay trong ngũ trược ác thế với thần lực của đức Bổn tôn… Có người vốn nguyện độ sanh mau chóng, thì đem công đức của cái nguyện ấy mà tự trang bị, nhập vào thế giới sanh tử, tự tại thuyết pháp giáo hoá. A Di Đà Phật dùng thần lực làm cho người thành tựu bồ đề, nhưng từ đầu đến cuối, người này khôngbị cái khổ của đường dữ… dẫu song trong ngũ trược ác thế mà không khác gì sống trong thế giới của người ấy là Cực Lạc quốc độ”.
Công phu sang là mối sang sớm lặp lại chí nguyện ấy để rồi làm theo cả ngày. Nhưng biết rằng trở ngại của chí nguyện ấy là Dục vọng, là bao nhiêu ma chướng: thiếu thốn, tật bệnh, tai nạn, khổ báo… Vì vậy mà phải trì chú Lặng nghiêm và các phẩm thần chú khác. Sau phần trì chú là phần hồi hướng, niệm Phật, phát nguyện theo hạnh nguyện Phổ Hiền tức nguyện sanh Cực Lạc, và tự quy Tam bảo, toàn là để bảo vệ và tăng trưởng cho chí nguyện “vì tuệ giác bồ đề mà cầu snah Cực Lạc”.
(Trích bản dịch Hai Thời Công phu của Trí Quang thượng nhân, phần lời tựa, thành hội PG Tp.Hồ Chí Minh xuất bản)

Chúng tôi đông ý rằng, pháp Hiện Tại Lạc Trú của Nhất Hạnh cũng bắt nguồn từ Phật pháp (mặc dù đã được chế biến qua bàn tay không mấy tinh sạch của Nhất Hạnh!). Mà Hai Thời Công phu cũng vậy, đều phát khởi thiện pháp và ngăn ngừa ác pháp, làm cho người xuất gia gìn giữ tâm bồ đề ở trong cuộc sống, rồi phát triển nhân cách bồ tát ở nơi mình.
Thực tế trong quá khứ đã có biết bao nhiêu vị tăng sỹ trở thành cao tăng, thạc đức, tổ sư Việt Nam và Trung quốc nhờ vào việc trì tụng Hai Thời Công phu, trong số đó có cả đạo sư Nhất Hạnh ngày xưa nữa chứ! Nhưng đặc điểm của quốc độ này là còn tôn trong giáo pháp truyền thống và quen thực hành Hai Thời Công phu, thì hãy cứ chấp nhận như thế. Ai theo Làng Mai thì cứ tu. Ai thực hành thì Hai Thời Công phu thì cứ tiếp tục.
Nhất Hạnh đứng trên cơ sở nào, quyền lực nào mà đòi hỏi huỷ Hai Thời Công phu? Nên nhớ rằng, Tâm linh không có quyền lực, nếu ai viện dẫn đến quyền lực để áp chế người khác, tức là sử dụng quyền lực thế gian mà thôi!
Vả lại, nếu Nhất Hạnh huỷ bỏ Hai Thời Công phu thì chư tăng Từ Hiếu sẽ làm gì cho hết ngày? Các vị tu sỹ trẻ tuổi sẽ lấy gì để phòng hộ thân tâm? Và phát thiển bồ đề tâm? (ngay cả những người cư sỹ cũng lấy Hai Thời Công phu làm thực phẩm tâm linh cao cấp nhất cho cuộc sống hàng ngày).
Cái pháp “Hít vào tâm tĩnh lặng” ấy chắc gì hiệu quả và mang lại năng lượng tâm linh lơn lao hơn Hai Thời Công phu ư?
Sách vở do Sư Ông sáng tác, chế biến bằng tinh thần nô lệ học thuật Tây phương và tinh thần nô lệ khoa học kia, chắc gì đã mang lại năng lực giải thoát cho chúng tôi hơn la kinh điển Tịnh độ vốn đã ăn sâu vào tạng thức mọi người Phật tử Việt Nam?
Nhất Hạnh lấy gì để chứng minh là pháp của mình sang tạo sẽ an toàn và hiệu nghiệm hơn pháp nghi truyền thống?
Chúng tôi biết rằng, rất nhiều vị tăng sỹ Phật giáo Huế vô cùng bất bình, phản đối khi nghe tin Nhất Hạnh huỷ bỏ Hai Thời Công phu và những quy tắc truyền thống.
Dĩ nhiên ngoại trừ những người lười học, biếng tu, ham ăn chơi, sãn sang phạm giới, thì sự kiện động trời này sẽ không bao giờ ảnh hưởng chi tới họ cả.
Sự kiện huỷ bổ Hai Thời Công phu là được phát khởi từ long thương chúng sanh bao la không bờ bến của Nhất Hạnh? Hay là bắt nguồn từ Ngã Kiến hẹp hòi và cố chấp cứng ngắc của một Tỳ kheo phạm giới, một vị đạo sư dzổm?
Hỏi tức là đã trả lời!
Ý đồ xoá sổ Hai Thời Công Phu là một động lực tràn đầy trí tuệ của một vị Bồ tát tấu suốt được tất cả ngọn ngành của tâm thức chúng sanh? Hay là sự phô trương bãn ngã sặc sỡ của một con người giả trá, ham thích loè bịp chúng sanh bằng những thủ đoạn thiếu vắng Phật chất?
Hỏi tức là đã trả lời!
Chuyện kể rằng: Thượng toạ Chí Mậu dường như tỏ ra phẫn uất cực độ khi phải tuân thủ mệnh lệnh của bậc tiền bối lão thành Nhất Hạnh và đã từ bỏ Hai Thời Công Phu có làm quen với đường lối tu hành bát nháo của Sư Ông, bởi vậy thân phận nhỏ bé của kẻ hậu sinh cũng như không thể nào chống lại quyền lực vô biên của vị giáo chủ ưa nói tiếng Tây và giới thể kém hoàn toàn bị này.
Nhưng sau một thời gian loay hoay, trăn trở, khi Nhất Hạnh đã rời khỏi đất nước Việt Nam, thì TT. Chí Mậu đã lén lút tái lập công việc trì tụng Hai Thời Công Phu như xưa. Tội nghiệp cho người! Chúng tôi nghe nói vậy và không ai là không cảm động trước tình cảnh éo le gay cấn của một người xuất gia, chỉ vì một lý do bên ngoài cổng chùa mà buộc phải đánh rơi con đường tu tập của mình!
6. - Điều dối trá thứ 6: Thiền Ôm!
Thiền Ôm là một đặc sản mang đậm dấu ấn trá nguỵ, gian tà và trấn lột tâm linh của Nhất Hạnh, đã bị vô số Phật tử lên án và phủ nhận. Đây là một sự kiện đáng buồn cho Phật giáo mà chúng ta không thể bỏ qua.
Nhất Hạnh biện giải về Thiền Ôm như sau:
Thiền Ôm là một phép thực tập để con có thể hoà giải với cha, anh có thể hoà giải với em, cha có thể hoà giải với mẹ. Thiền Ôm là một nghi lễ. Thiền Ôm đã giúp cho không biết bao nhiêu cặp cha con, vợ chồng, và anh em hoà giải được với nhau và phục hồi lại hạnh phúc đã mất (…) (Trích Năm Cánh Toả Kỳ Hương, trang 28).
Giữa con người, nếu muốn hòa giải với nhau có hiệu quả thực sự, thì như chúng ta đã biết, trong Phật pháp có không biết bao nhiêu phương thức, vô lượng vô biên pháp môn ba-la-mật để thực hiện thành công tốt đạp, việc gì phải sử dụng tới việc ôm nhau như mhuwngx người Tây phương ? Hơn nữa, vấn đề hòa giải được với nhau hay không đều tùy thuộc nơi Tâm Thức của mình chứ không phải vận dụng tới hình thức ôm như vậy?
Đây chỉ là sự tưởng tượng rối rắm của nghệ sỹ Nhâts Hạnh chứ trong thực tế, có mấy ai thực hành phương pháp kỳ quái, rởm rang này? Đây chỉ là sự bịa đặt phù phiếm của Nhất Hạnh mà thôi, chứ trong cuộc sống thường nhật, có mấy kẻ mang tâm hồn đỏm dáng để lần khan làm trò xiếc như Nhất hạnh bày vẽ?
Lại nữa, khi chúng ta qua một quá trình tu tập thực sự với bất kỳ pháp môn nào, thì tâm hồn chúng ta sẽ dần dần được chuyển hóa, do vậy chúng ta sẽ nhìn nhau bằng đôi mắt thứ ba- khoan dung và tha thứ cho nhau – tất nhiên ngay lúc ấy, chúng ta không cần biểu hiện thêm bất cứ một hành động ngớ ngẩn nào nữa! Ánh mắt và thái độ sống của chúng ta trả lời thay tất cả những hành động hoặc lời nói mà chúng ta muốn bày tỏ. Phải thế chăng?
Cần dài dòng thêm một chút:
Chúng tôi đồng ý rằng, đối với người Tây phương vốn có những cách biểu đạt tình cảm rất riêng của họ, do đó, họ có thể ôm nhau sau khi “đả thông tư tưởng”, khi gặp gỡ, khi từ biệt, hoặc họ có thể ôm nhau bất cứ khi nào cần thiết. Nhưng cái cơ sự “ôm nhau” như vậy, chính là một phần của sinh hoạt hàng ngày của họ, không thể gọi là Thiền được. Không thể gán ghép từ ngữ Thiền vào bất cứ hành động tâm-sinh-lý nào của họ, bởi vì thuật ngữ Thiền chỉ để sử dung vào những trường hợp nhất định, chứ không phải lúc nào cũng có thể sử dụng bừa bãi như vậy được!
Những người Phật-tử sơ cơ có lẽ sẽ ưa thích Nhất Hạnh ở chỗ bày lắm cjieeu thức hoa dạng, màu mè này và tỏ ra quáng mắt, nhưng ngững người Phật tử hiểu biết thì họ chỉ còn nước… thở dài ngán ngẫm trước cung cách trình diễn ấu trĩ của một ông giáo chủ tân thời. Cái thiên tài tuyệt phích của Nhất Hạnh được biểu lộ thô thiển trong những sự kiện nhảm nhí mà những người Phật tử thuần thành không khỏi xấu hổ, dị ứng : Thiền Đi, Thiền Rửa Bát, Thiền ăn, Thiền Lạy, Thiền Buông Thư, Thiền Làm Việc, Thiền Ôm… Nhất Hạnh đã quá “mảy sến” khi đặt thêm một từ Thiền sau bất kỳ từ ngữ nào mà ông ta khoái!
(có vài cư sỹ trào lộng: Một ngày nào đó không xa, Nhất Hạnh sẽ lập nên một cái gọi là “Thiền Giao Hợp”, “Thiền Giao Cấu”, “Thiền Giao Hoan”, và đệ tử Làng Mai sẽ thực hành như sau: Hít vào tâm hổn hển, Thở ra miệng mỉm cười, An trú trong khoái lạc, Giờ phút sống tuyệt vời!”)
Cứ cái đà này mà tiếp diễn, thì Nhất Hạnh sẽ trở thành Loạn Thiền, Cuồng Thiền từ lâu mà ông ta không hay! Rồi qua bàn tay xào- nấu chẳng khác chi là tung hỏa mù vào trận địa của ông ta, đạo Phật không còn là giáo lý giải thoát, chứng ngộ nữa, mà sẽ trở thành một đống rác rến cao chất ngất mà chúng sanh sẽ không biết lần đau cho ra dấu vết con đường Bát Chánh.
Hỡi ôi, Phật pháp đã bị Nhất Hạnh làm cho loạn danh loạn thực đến nước này ư? Thế thì bậc xuất gia chân chánh như chư vị hòa thượng , thượng tọa, ở đâu? Tai sao không chịu lên tiếng cho chúng sang được nương nhờ ánh sáng trí tuệ quang minh?
Mà thôi, khi mà một ông sư mặt dày đã lén lút lấy vọ, đẻ con, nói láo, nói điêu, nói ngoa ngôn lộng ngữ như vậy, mà còn tự xưng là thiền sư để dẫn dắt đệ tử và lừa bịp chúng sanh - thì bất kỳ chuyện gì cũng có thể xảy ra cả !

***

Chương thứ bảy

CHỦ NGHĨA NHẤT HẠNH CÒN GỌI LÀ TƯ TƯỞNG CHỦ ĐẠO CỦA TẬP ĐOÀN LÀNG MAI

(Chương này được tập hợp từ ý kiến của chư vị tôn túc hiện tu trì tại các ngôi chùa Thừa Thiên Huế, cùng sự góp ý của đại sư T. T. Q , hoà thượng T. T. H, Thượng toạ T. T. T. và bài viết của một vị Tỳ - kheo ẩn danh, tác giả tập tài liệu lưu hành nội bộ “Nhận định về giáo lý Làng Mai”).
Qua các bài thuyết giảng cũng như hàng trăm đầu sách đủ loại, chúng tôi thấy chủ nghĩa Nhất Hạnh là một mớ tạp lục vô cùng hỗn độn, do được pha trộn giữa kinh điển Phật giáo với nhiều thứ tư tưởng ngoại đạo và đủ thứ triêt học Đông Tây, cho nên chúng tôi gọi đây là thứ chủ nghĩa “Hằm Bà Lằng mà lâu nay bị quần chúng ngộ nhận là một loại đạo Phật hiện đại hoá, phát xuất từ Tây phương, duới tài năng biên soạn của Nhất Hạnh…
Ngoại trừ những người không biết sâu sắc về đạo Phật hoặc không có điều kiện nghiên cứu sâu xa, và đa số quần chúng Phật tử bị loá mắt bởi cung cách tuyên truyền và thủ thuật tiếp thị của Nhất Hạnh cùng Làng Mai, thì tất cả những bậc thức giả trong làng Phật học đều có chung những nhận định rất chân thật, chính xác về chủ nghĩa Nhất Hạnh. Trong lúc loạt bài viết này sắp sửa hoàn thành, thì chúng tôi nhận được một bài viết: “Nhận định về giáo lý Làng Mai”, không ký tên tác giả. Nhưng khi đọc xong, qua văn khí và cách sử dụng từ ngữ Phật học, chúng tôi biết chắc chắn đây là bài viết do một vị Tỳ - kheo chấp bút. Có lẽ trước đây, vị Tỳ - kheo ẩn danh này cũng là đệ tử của đạo sư Nhất Hạnh, nhưng về sau, nhận rõ được bộ mặt tráo trở nguy hiểm của đạo sư, bèn ly khai Nhất Hạnh cùng Tăng thân Làng Mai, và công bố những sai lầm nghiêm trọng của Nhất Hạnh với mục tiêu trong sáng là cảnh báo mọi người hãy lánh xa con người dối trá cũng như cái giáo lý phù phiếm ấy.
Xuất thân từ chùa Từ Hiếu, một cái nôi của Thiền Tịnh song tu, nhưng khi trưởng thành thì Nhất Hạnh lại ảnh hưởng mạnh mẽ tư tưởng Tây phương đương thời. Từ tư tưởng nhân văn của Saint Exupery, André Gide, André Malraux, đến những tư tưởng duy lý của E. Kant, K. Jaspers, Schopenhauer, Goethe, Kafka …
Từ những trường phái phân tâm học của Freud, Carl Jung, E. Fromm cho đến trường phái triết học hiện sinh hữu thần của Gabriel Mảcel, hiện sinh vô thần như Albert Camus, Jean Paul Satre, Kieerkegard,… Từ sách vở Thiền tông của Suzuki, Chang Chen Chi, và ấn độ giáo như Vivekanda, Aurobindo,… cho đến Krishnamurti, vân vân… cuối cùng đã hình thành trong đầu óc Nhất Hạnh một tầm nhìn thực dụng, duy lý, có khuynh hướng mê tín khoa học, chạy theo hiệu quả trước mắt và bỏ quên những giá trị siêu hình (tạm gọi như vậy) của tôn giáo nói chung và đạo Phật nói riêng.
Khi Nhất Hạnh tuyên bố từ bỏ chính trị, hoặc chuyển hướng qua một mô thức chính trị mới, nghĩa là muốn thực hiện những ý đồ chính trị bằng cách lấy Phật giáo làm cơ sở hợp pháp, nền tảng triết lý, để tiện bề thu hút Phật tử – phát triển quyền lực bởi vì, dẫu sao ông ta vẫn còn đủ khả năng để lợi dụng chiếc áo Tỳ - kheo và gia tài kinh điển sẵn có của đạo Phật.
Nhất Hạnh đã khởi đầu xây dựng cái chủ nghĩa mang nhãn hiệu Nhất Hạnh của mình bằng việc khai thác kho tàng Nikaya và trộn lẫn với giáo lý Krishnamurti, dĩ nhiên là dưới quan điểm thực dụng Tây phương và ánh sáng khoa học bằng tài nghệ văn chương của mình.
Theo những nhà tri thức Phật giáo tại Thành phố Huế mà chúng tôi hân hạnh được tiếp xúc, thì chủ nghĩa Nhất hạnh đượm màu sắc đạm nét của Cái Đang Là (the What is) của Krishnamurti, nếu chúng ta đọc kỹ các cuốn sách đầu tay về chủ nghĩa này “phép lạ của sự tỉnh thức”, “trái tim mặt trời”, “An trú trong hiện tại,…
Ngay cả cái gọi là “Hiện pháp lạc trú” của Nhất Hạnh cũng là sự bào chế khéo léo của kinh điển Nikaya với giáo lý Krishnamurti qua ngôn ngữ sáng sủa và mềm mại nữ tính của Nhât Hạnh !
Đây là tài năng đáng khen của Nhất Hạnh hay là điểm đáng xấu hổ của Phật giáo? Xin nhường câu trả lời cho quý vị thiện chi thức!
Chủ nghĩa Hiện pháp lạc trú là gì? Đọc lại toàn bộ những tác phẩm Nhất Hạnh chúng ta sẽ thấy:

1. - Không bao giờ đề cao nguyên lý Nhân Quả.
Một điều mà ai cũng nhận thấy là, trong vô số kinh điển nhà Phật, đức Phật luôn luôn nhấn mạnh nguyên lý Nhân Quả như là nền tảng chính yếu của đạo Phật, đến nỗi chúng ta có thể nói: Đạo Phật là đạo Nhân Quả. nghĩa là rời Nhân Quả thì không có đạo Phật. Thế nhưng,Nhất Hạnh đã cố tình bỏ quên nguyên lý này trong tất cả các bài giảng của mình.
Ai đã từng đọc qua môt số kinh sách Phật giáo mà không biết tới câu chuyện Tổ Bách Trượng và ông Già Chồn, vốn được truyền tụng trong nhà Thiền? Tuy ngắn gọn, nhưng chứa đựng ý nghĩa trọng yếu của luật tắc Nhân Quả, cốt tuỷ của toàn bộ giáo lý nhà Phật. Chúng tôi xin mạn phép thuật lại vắn tắt như sau:
Một hôm, vừa giảng kinh xong, tổ Bách Trượng bước ra thì gặp một ông già, thoạt trông không giống những người khác thường đến nghe giảng. Tổ hỏi:
- Ông là ai?
Ông già đáp:
- Bạch hoà thượng, con không phải là người. Nguyên thời đức Phật Ca-diếp con vốn là một vị Tăng. Nhân có một người đệ tử hỏi: Bậc tu hành còn bị chi phối bởi Nhân Quả hay không? Con liền đáp: Bất lạc Nhân Quả. (không rơi vào Nhân Quả).
Như vậy, từ đó con bị đoạ làm thân chồn đã 500 kiếp. Con không biết mình mắc phải lầm lẫn gì, hôm nay cúi xin hoà thượng chỉ dạy một câu chuyển ngữ để con có thể thoát được cái thận súc sanh này hay chăng?
Tổ Bách Trượng bảo:
- Bây giờ ngươi hỏi lại câu ấy cho ta nghe thử xem?
- Bạch hoà thượng! Bậc tu hành có còn bị vận hành theo nguyên tắc nhân quả hay không?
Tổ dạy:
- Bất muội Nhân Quả! (Bậc tu hành thì không còn bị mê mở Nhân Quả nhưng luôn luôn thấu suốt ngọn ngành của Nhân Quả).
Ông già chồn liền giác ngộ ngay câu trả lời của tổ Bách Trượng, bèn thưa rằng:
-Thế là từ nay con thoát được thân chồn này, cúi xin hoà thượng lấy theo nghi lễ Thầy Tu mà tống táng cho con.
Xong liền biến mất. Tổ Bách Trượng bảo đại chúng rằng,sau ngày ngọ này sẽ cử hành nghi thức tống táng một vị Tăng sỹ. Tất cả đại chúng kinh ngạc vô cùng bởi vì trong tu viện này hôm nay đâu có vị tăng sỹ nào vừa qua đời đâu?
Sau giờ ngọ trai hôm ấy, tổ Bách Trượng dẫn chúng tăng ra phía sau núi, lấy gậy khêu xác một con chồn ra, rồi tụng kinh chú cầu nguyện y như lễ tang của một vị Tỳ - kheo, sau đó làm lễ trà - tỳ. (hoả táng).
(trích Thiền Luận, tác giả D. T. Suzuki, Trúc Thiên dịch,
An Tiêm Sài Gòn xuất bản, 1970).
Như vậy, ông già chồn trước kia tuy là một vị Tỳ - kheo, lỡ phủ nhận nguyên lý Nhân Quả tức là chối bỏ toàn bộ giáo lý nhà Phật, mà vô tình mắc vào tội “Phá kiến”. Đây là một tội lớn nhất đối với Phật pháp.
Các tôn giáo khác trên thế giới thường đặt toàn bộ giáo lý của mình trong việc chấp nhận và tôn thờ Thượng đế thì không bao giờ đặt nặng vấn đề Nhân Quả, bởi vì tất cả tội hay phước gì đều do Thượng đế định đoạt. Đối với họ, Thượng đế luôn luôn quyết định mọi sự kiện lớn nhỏ của vận mệnh con người, và con người chỉ có một quyền duy nhất: tất cả sinh hoạt của mình đều nhắm vào một việc: làm thoả mãn ý muốn của Thượng đế. Cuối cùng được làm “tôi tớ” của Ngài rồi được ngài đưa lên Thiên đường, vĩnh viễn hưởng thụ vô lượng khoái lạc.
Riêng đạo Phật thì không như vậy. Có thể nói rằng, đạo Phật là tôn giáo duy nhất trên thế giới này có một đặc điểm là Không Chấp Nhận Thượng Đế. Một tôn giáo không có Thượng đế!
Rajneeesh Osho đã từng cảm thán:
- Thật là kỳ lạ, một tôn giáo không có Thượng đế như đạo Phật mà vẫn tồn tại hơn hai ngàn năm trăm năm và đã cảm hoá không biết bao nhiêu con người trên thế giới này.
Đạo Phật chỉ đặt nền tảng giáo lý trên luật tắc Nhân Quả và đạo lý Duyên Khởi. Thật ra, đây là chân lý ngàn đời của vũ trụ chứ không phải do Đức Phật bày đặt ra. Đạo Phật chỉ dạy chúng ta sống thuận theo luật tắc Nhân Quả và nguyên lý Duyên Khởi để tận diệt khổ đau, giải thoát sanh tử luân hồi và cuối cùng thành Phật, cho nên tín đồ nhà Phật không bao giờ cần đến một đấng cứu rỗi như Thượng đế chẳng hạn.
Nhất Hạnh tuy mang danh là người truyền bá giáo lý nhà Phật, nhưng trong các bài giảng của mình thường đề cao một cái gọi là “An lạc trong hiện tại”, “Tỉnh giác trong cuộc sống”, “Buông thư ngay trong từng giờ từng phút”, vân vân … mà luôn luôn bỏ quên trọng tâm chính yếu của đạo Phật là phải tuyên dương luật Luật tắc Nhân Quả. “Mà hệ luận của nó là tái sanh và luân hồi. Mà giải thoát khổ đau luân hồi mới là mục tiêu thực sự của đạo Phật”. (trích The Way of zen, tác giả Alan Watts, Ni sư Thích Nữ Trí Hải dịch: Thiền Đạo trang 12).
Như vậy, tại sao chúng ta không thắc mắc:
- Chủ nghĩa Nhất Hạnh có phải là Phật pháp hay không? Đó là loại hình Phật giáo hiện đại hoá thứ thiệt? Hay chỉ là một mớ xà - bần lộn xộn được dán nhãn Phật giáo? Xin nhường phần giải đáp cho quý vị thiện tri thức!

2. - Không hề đặt nặng mục tiêu Sanh tử Luân Hồi.
Đức Phật xuất hiện thế gian này chỉ vì mục đích duy nhất: làm sao cho chúng sanh thoát khỏi gông cùm sanh tử luân hồi, phát bồ đề tâm, thực hành hạnh nguyện Bồ tát và thành Phật. (đối với tiểu thừa thì: đắc quả A - la - hán). Nhưng tất cả mọi tông phái đạo Phật đều có điểm chung:
Đó là luôn luôn đề cao sự nghiệp giải thoát sanh tử luân hồi. Nhưng Nhất Hạnh chỉ đề cao việc hưởng thụ an lạc giả tạo trong hiện tại, bỏ quên nguyên tắc trọng yếu của đạo Phật.
Chúng ta hãy lật lại tất cả văn bản Phật giáo, từ những bài giảng đầu tiên về Tứ Diệu Đế của đức Phật dành cho anh em Kiều-trần-như ở Vuờn Nai (Lộc Uyển) cho đến giáo lý cao siêu tuyệt đỉnh như Tánh Không, Bát Nhã - từ các bài học kinh thuộc truyền thống Nikaya của Phật giáo Nguyên thuỷ cho đến những bộ kinh vĩ đại thuộc hệ phái Phật giáo phát triển (Đại thừa),… nghĩa là tất cả những cái gọi là giáo lý nhà Phật đều luôn luôn khẳng định một mục tiêu trước nhất của những người học Phật: đó là giải thoát luân hồi sanh tử – dẫu giáo lý ấy thuộc bất cứ truyền thống nào, tông phái nào…
…bởi vì tất cả đều tuyên dương một cái cốt lõi rất khẩn yếu, mà bỏ quên cốt lõi này thì Phật giáo không còn là Phật giáo nữa: giải thoát sanh tử luân hồi.
Ngay cả bậc thiền sư nổi tiếng chứng ngộ ngày xưa, dẫu đã ngộ đạo hay là còn đang thời gian tu tập, bất kỳ lúc nào họ cũng đặt trước mắt dòng chữ: “Sanh tử sự đại” để tự răn nhắc bản thân. Nghĩa là chỉ có việc giải quyết sanh tử là vấn đề duy nhất và quan trọng nhất của người tu.
Đúng như vậy, tu theo đường lối nào, trường phái nào, mô thức nào, nhưng hành giả không thể nào quên được mục đích chính yếu: giải quyết sanh tử. Còn những vấn đề khác sẽ tự nhiên được giải quyết theo hướng thoát ly sanh tử. Những chuyện khác chỉ là mệnh đề phụ của việc giải thoát sanh tử mà thôi. Khi đã làm chủ được sanh tử thì tất cả mọi vấn đề khác sẽ trở thành “chuyện vặt”, không đáng quan tâm.
Mà muốn thoát ly sanh tử thì phải Phát Bồ đề tâm. Muốn phát triển Bồ đề tâm thì buộc hành giả phải thường xuyên tu tập một pháp môn nào đó do đức Phật chỉ dạy, ngoài ra còn phải thực hành nhiều hạnh nguyện Ba – la – mật… (Đây là hệ luận 1,2,3,… của sự thoát ly sanh tử luân hồi).

Ngẫu Ích đại sư khẳng định:
Giải thoát sanh tử là mục đích chung cùng của các tông vậy. Dù tu tập môn gì, làm hạnh gì trong Phật pháp và nhắn nhủ một điều rất căn bản là: việc lớn sanh tử, vì tâm bồ đề mà làm, bằng không (nếu cứ lăng xăng chạy vạy và thực hiện) tất cả thiện sự đều có thể dẫn lối đi về mê đắm. (“Ngẫu Ích Đại sư”, soạn giả Thích Định Thông).
Và kết quả của công trình hiện đại hoá Phật giáo là: Nhất Hạnh hiện đang sống như một kẻ mê muội vì đàn bà, mê muội vì danh lợi, vì ghiền diễn xuất, ham mê quyền lực của tổ chức, mù quáng vì sự tôn vinh hư dối của các đệ tử mắt xanh mũi lõ và những người kém phước duyên, vốn có hiểu biết cạn cợt và không chịu nghiên cứu kinh điển Phật giáo một cách kiên trì, nghiêm túc và sâu xa.

3. Bỏ quên tầm quan trọng của giới luật:
Trong các bài giảng cũng như trong những cuốn sách đã xuất bản, Nhất Hạnh thường nhấn mạnh Niệm Định Tuệ và rất ít khi nhắc đến tầm quan trọng bậc nhất của giới luật, trong khi đức Phật trước khi niết bàn đã răn nhắc khẩn thiết:
Chư vị Tỳ – kheo, sau khi ta diệt độ, các ông hãy lấy Giới luật và chánh pháp làm thầy!
Hoặc: Giới luật tồn tại, thì Phật pháp tồn tại.
Trong khi các vị tổ sư ngày xưa, khi muốn chấn hưng Phật pháp, các ngài đều chú trọng việc phục hồi giới luật, tái lập kỷ cương trong tăng – già, để làm mô phạm cho quần chúng Phật tử cư sỹ cũng như “làm cho chánh pháp được tồn tại lâu dài”
Mới cách đây chừng ba trăm năm, tại Trung Quốc có ngài Ngẫu ích đại sư, tuy chấp trì giới luật vô cùng nghiêm minh, nhưng muốn tỏ lòng tôn trọng giới luật của mình, bèn tự ý hoàn trả giới Tỳ kheo mà lui về xin giữ giới Sa-di mà thôi.
Tại sao như vậy?
Bởi vì ngài tự hổ thẹn, cho rằng bản thân chưa xứng đáng thọ trì Tỳ kheo giới. Chúng ta hãy đọc một đoạn văn sau đây, trích từ tác phẩm “Ngẫu Ích Đại sư, Hành trạng và Pháp ngữ”:
Suốt cuộc đời, đại sư luôn luôn nghiêm huấn người xuất gia hành trì giới luật. Trong phần hành trạng ta thấy, đã 6 lần ngài giảng dạy về Luật. Rằm tháng 7 năm Quý Dậu (1633), ngài bạch thỉnh Tam bảo, rồi xả giới Tỳ – kheo, lui làm Sa-di Bồ tát giới.
Đại sư bảo rằng:
Giới hạnh như vậy, là dư để làm một vị tỳ- kheo trong thời đại ngày nay nhưng lại chẳng đủ để trở thành một vị Sadi như ngay xưa. Cho nên, thà bỏ cái “Hữu dư” mà theo đòi cái “Bất túc” vậy. Ngài lại dặn dò thống thiết:
Sau khi chư Phật nhập diệt người xuất gia phải lấy Giới làm thầy, như thuyết tu hành, gọi là Chánh pháp trụ thế.
Nay buổi mạt vận, cạnh đưa hư danh, đối với Giới kính, chẳng biết nguồn ngọn, chẳng tuân pháp Yết – ma, vọng nhận là mô phạm, làm pháp sư văn tự, làm khách thiền cuồng vọng, đều là loài trùng trong nhân sư tử, hình phục là tướng sa môn, mạo trì giới luật, đến nỗi để bọn quần ma xâm lấn. Nay con phát tâm thủ thắng, thề nguyền chuyên cần gìn giữ thủ hộ.
Còn Nhất Hạnh?
Ngài luôn tự xưng thiền sư rồi Hoà thượng, nhưng xét về giới luật, bản thân ngài đã chấp trì toàn vẹn hay chưa? Về đặc chất khiêm cung của một vị Ty-kheo, mà do yêu cầu của một bậc hoằng dương Phật pháp, thì ngài đã thể hiện đúng mức chưa? Mong ngài sớm tuyên bố cho chúng sanh được.

4. Thoả mãn vớ sự an lạc giả tạo ở hiện tại
Sau khi hít vào tâm náo động, thở ra miệng gượng cười một thời gian, hành giả làm gì mà đắc được an lạc?
Nếu có, thì đó chỉ là sự an ổn giả tạo, do sự vận động của ý thức chứ không có trị tâm linh chút nào!
Đây không phải là một cái gì tạm gọi là sản phẩm tâm linh của đạo Phật cả, bởi vì chẳng hàm chứa đặc chất giải thoát của một tôn giáo vốn chuộng sự thật và không bao giờ chịu liên minh với dối trá, nhất là dối trá với chính mình thì là điều quá ư tệ hại!
Phải nhận xét công minh hơn, chúng ta sẽ thấy rằng: Cái Hiện pháp lạc trú của chủ nghĩa Nhất Hạnh chẳng qua chỉ là phép Thư giãn trong nhất thời mà thôi. Dù chúng ta thực hành năm mười năm, hoặc ba bốn chục năm, phép thư giãn vẫn chỉ là phép thư giãn. Làm gì phát sanh trí tuệ nổi? Làm sao chứng đắc An Lạc thực sự? Làm sao giải thoát luân hồi sanh tử nổi?
Đạo Phật đâu có đến mức duy vật như vậy, và rẻ tiền như vậy?
Hoặc may mắn, chúng ta có thể thủ đắc chút xíu yên ổn tâm lý nào đó, nhưng chúng ta buộc phải buông bỏ nếu chúng ta muốn đi tới tận cùng của mục tiêu giải thoát tuyệt đối, niết bàn vô sanh…
Còn trong trường hợp chúng ta tự đắc tự mãn với cái thành quả vô cùng nhỏ nhoi ấy, rồi trở nên kiêu căng ngã mạn – thì đương nhiên chúng ta đã sa đoạ vào “trước cám dỗ” của Ma quỷ. Mà ma quỷ đâu phải là ai đâu xa lạ? Ma quỷ chính là tư tưởng dục nhiễm hiện đang ẩn náu trong tâm thức chúng ta mà thôi!
Tâm linh vốn có giá trị siêu hình và luôn phát sanh những kết quả thù đắng, vi diệu mà chúng ta không thể cân đo, đong đếm được. Cho nên, một người thực hành bất kỳ một pháp nào của đức Phật thì cũng sẽ phát triển niềm dung động tâm linh tối cao và chắc chắn thu nhận những “hoa trái bí mật” nào đó. Như là: cuộc sống trở nên yên ổn hơn, bởi khi tu tập thì hành giả tự nhiên chấp trì giới luật kỹ lưỡng hơn, chỉ giao du với thiện trí thức, thích thú đọc kinh, say sưa thảo luận chuyện đạo… thì dĩ nhiên cuộc sống đời thường sẽ giảm bớt những phiền toái, những rắc rối vô bổ,… cho nên phải xác nhận rằng, nếp sống hành giả sẽ trở nên yên ắng hơn, giản dị hơn, chứ làm sao thu hoạch được niềm an lạc tâm linh thực sự (“đã về đã tới”) – như Nhất Hạnh rêu rao nổi?
Thật ra khi được chánh pháp mở mắt. vén màn vô minh, thì chúng ta sẽ trở thành một người thao thức xao xuyến… trước đây chúng ta chỉ băn khoăn về vấn đề cơm áo gạo tiềnm cho nên luôn quay cuồng trong vật dục mà không tự biết. Còn bây giờ thì chúng ta lại bắt đầu có ý thức về những khắc khoải nội tâm, trăn trở những sự kiện siêu hình, những đề tài Phật pháp. Và luôn luôn cảm thấy lòng mình cũng đầy phong ba bão tố,… chứ nào được an lạc tâm linh thực sự đâu?
Thi sỹ Mặc Nhiên, một tín đồ nhiệt thành của Niệm Phật Tịnh độ đã cảm thán:
Với một dúm niềm tin
Mà A Di Đà ban phát,
Đã biến đời con
Thành giông – bão – kiếm – tìm…
Vâng, khi được Tam Bảo trao tặng một dúm đức tin chân chánh vào đức Phật và đạo Phật thì ai cũng tưởng mình sẽ trở thành sung sướng hạnh phúc và an ổn khoái lạc theo kiểu thế gian vân vân. Nhưng thực sự thì không phải vậy. Với chút đức tin, với chút chánh kiến mà Tam Bảo truyền ban, cuộc sống chúng ta bỗng dưng trở thành những “cơn giông thao thức” và những “cơn bão kiếm tìm”. Và mãi mãi như thế – không bao giờ tâm thức chúng ta được thư giãn, thoải mái cả. Một nỗi xao xuyến vô cùng kỳ lạ, không thể diễn tả bằng lời.
Chúng ta không thể an lạc tưởng tượng như Nhất Hạnh khoa trương khoác lác trong các bài giảng kia!
Chúng ta không thể tự trấn áp bản thân bằng một thứ ảo tưởng An Lạc theo chủ nghĩa Nhất Hạnh được. Mà đạo Phật là gì nếu không phải là con đường và phương pháp giúp chúng ta tận diệt tất cả ảo tưởng, ngay cả ảo tưởng “làm thánh nhân”, ảo tưởng “tỉnh giác”, ảo tưởng “hạnh phúc trong hiện tại”.
Khi chúng ta trở về với đức Phật, chúng ta sẽ không bao giờ cần đến một thứ an lạc giả tạo mà Nhất Hạnh đã bỏ cả cuộc đời để quảng cáo rầm rộ kia! Ông Trưởng Giả sẽ trao cho chúng ta cả gia tài đồ sộ, cần chi mấy thứ giẻ rách “an lạc, mầu nhiệm, phép lạ” mà đức Phật đã khuyến cáo chúng ta hãy chối bỏ biết bao lần trong đời?
Đại sư Vivekanada nói: We are miserable through delusion. Give up the delusion and the whole thing vanishes!
Vương Gia Hớn dịch: chúng ta khốn khổ bởi vì ảo tưởng (vọng niệm). Hãy từ bỏ ảo tưởng vọng niệm thì tất cả vấn đề sẽ biến mất!

5. Không tin vào các giá trị siêu hình:
Một đường lối tu tập mà chỉ đặt trọng tâm vào các vấn đề cụ thể, thực dụng, chỉ nêu cao hiệu quả tâm lý và bỏ qua các yếu tố siêu hình và các cảnh giới ngoài tầm tư duy của con người, thì đó là khoa học hoặc quái thai của khoa học chứ không phải là tôn giáo đích thật.
Trong cuốn “Đường xưa mây trắng”, chính Nhất Hạnh viết lời bạt rằng, ông ta cố ý bỏ qua các khía cạnh siêu hình của đức Phật, phủ nhận các yếu tố thần thoại mà Nhất Hạnh cho là “người ta đã khoác lên đức Phật chứ thật ra đức Phật không hề có” (sic).
Nhất Hạnh đã khắc hoạ hình ảnh một vị Phật trông giống như một con người bình thường giữa thế gian mà thôi. Nhất Hạnh còn lấy hình ảnh, nhân cách và hành trạng của vợ mình mà làm khuôn mẫu để nặn lên nhân vật lịch sử Gia-du-đà-la, chánh cung của thái tử Tất - đạt đa! (Chuyện thật mà nghe như đùa)
Sau đây là chuyện “người mù khen ngợi kẻ đui”:
Khi bài viết này sắp sửa kết thúc, thì chúng tôi bỗng dưng được đọc cuốn: Võ Văi ái, kẻ nội trùng trong Phật giáo” do nhóm Trùng Dương xuất bản tại Texas, USA vào tháng 4/2005. Trong cuốn sách này, có bài viết của Hoàng Văn Giàu: “Nhân chuyến trở về quê hương của thiền sư Nhất Hạnh”.
Tác giả đã ca tụng Nhất Hạnh như là một nhà sư Việt Nam đã có công lao đóng góp vô cùng to lớn cho đất nước Việt Nam và cả Phật giáo Việt Nam nữa.
Sự kiện Hoàng Văn Giàu hết lời khen ngợi Nhất Hạnh là việc riêng của ông ta! Người viết như chúng tôi không có quyền xen vào. Nhưng, chúng ta thử hỏi: một phật tử như Hoàng Văn Giàu mà không có lập trường của người con Phật khi nhận định về một sự kiện Phật giáo, thì… quá ư lầm lẫn.
Hoàng Văn Giàu viết:
- Thiền sư Nhất Hạnh đã đạt được những thành công vĩ đại ở chỗ đã lôi kéo hàng ngàn hàng vạn người Âu Mỹ theo đạo Phật, sáng tạo một pháp tu cao siêu để dẫn dắt nhân loại theo con đường chân lý của đạo Phật, đã tiếp xúc vô số nhà lãnh đạo chính trị của các cường quốc trên thế giới, sáng tác hàng trăm đầu sách nổi tiếng và bán chạy, xây dựng nhiều cơ sở Phật giáo trên khắp hành tinh này, gây được uy tín rộng rãi trong nhiều giới khắp Tây Âu, Mỹ quốc, vân vân…
- Hoàng Văn Giàu chỉ nhìn thấy những chứng cứ cụ thể, thực dụng qua cặp mất “nhục nhãn” của mình, do đó đã đánh giá Nhất Hạnh như là đánh giá một nhân vật kiệt xuất hùng tài trên thế gian này, chẳng hạn Bill Gates, Charlie Chaplin, Rockeffeller,…
Thật vậy, nếu trên cõi đời hữu hạn này mà xuất hiện một người có tham vọng và lập trí ngay khi còn trẻ tuổi, rồi qua bao nhiêu năm thăng trầm cay đắng, người ấy đã thành tựu mục đích của mình : có quyền lực chính trị, noiir tiếng trên nhiều lãnh vực, lắm kẻ hâm mộ, tôn sung, dưới trướng có vô số kẻ phò tá và tung hô… Đứng về phương diện thế gian thì chúng ta có thể cảm phục người ấy và nhiệt liệt khen ngợi những thành quả của y.
Nhưng nếu y là một tu sỹ Phật giáo thì…lại khác. Chúng ta không thể đáng giá nhà tu Phật theo con mắt thế gian được. Bởi vì, có những thành tựu nếu xét về mặt thế gian thì hay ho, đáng kể, nhưng xét về mặt Phật giáo thì chúng ta cần… xét lại! Nhất là, khi nhận định về những thành tựu của một tăng sỹ Phật giáo thì phải đặt ông ta vào những “thang điểm” của nhà Phật. Sự vụ này, chúng ta chớ nên lầm lẫn.
Theo quan điểm của đạo Phật, thì Chứng ngộ mới là sự sự thành tựu cần phải có của một vị tăng sỹ Phật giáo.
Mà chứng ngộ là gì nếu y không thể hiện được tâm thái vô ngã, trí tuệ thực sự và tình thương têu vô phân biệt thì y dẫu thực hiện bất kỳ công trình nào vĩ đại đi nữa, cũng chỉ là trò hề của Nghiệp Báo, quái thi của Ngã Chấp mà thôi.
Người thế gian (vì vô minh quá mức!) có thể ca tụng ông ta bằng những lời lẽ cao quý nhất. Mặc kệ họ. Chúng ta phải nhận định tất cả hiện tượng theo giáo lý nhà Phật. , mà giá trị thực sự chính là giá trị tâm linh – dĩ nhiên tâm linh thì vô hình, siêu hình – tuy vô hình là siêu hình nhưng không phải là không thật.
Một người Hà Nội tuy xuất thân từ môi trường “vô thần” mà cũng có niềm tin vào những giá trị siêu hình, đó là nhà văn Nguyễn Việt Hà. Anh ta đã viết tong tác phẩm CÔ HỘI CỦA CHÚA như sau:
Một đoàn đại biểu của phong trào Bảo vệ Môi trường sinh thái, sau hàng loạt những chiến dịch tuyên truyền vất vả, và có một lần gặp một vị Lạt-ma đang ngồi thiền. Họ hỏi: “Một người đượ tiếng là đạo cao chức trọng như ngài, tại sao thấy việc thiện chúng tôi đang làm mà ngài không tham gia?” Sư đáp: “Mỗi ngày tôi đều đặn ngồi rũ bỏ tạp niệm, phóng vào hư không những tư tưởng thanh sạch như vậy, không phải là giữ gìn sinh thái hay sao?”. (văn học xuất bản 1998, trang 466)
Một người Phật tử mà chỉ tin vào những giá trị cụ thể, thực dụng ở trước mắt – những giá trị thế gian. Thì chúng ta nên nghĩ về ông ta như thế nào?
Thưa quý vị,
Ông Hoàng Văn Giàu đáng giá Nhất Hạnh mà chúng tôi cứ ngỡ rằng ông ta đang ca tụng Thanh Hải vô thượng sư! Bởi vì bà Thanh Hải cũng nói tới được bảy tám ngoại ngữ, có đệ tử xuất thân là Tiến sỹ Mỹ, Giáo sư Úc, Kỹ sư Pháp, Kiến trúc sư Nhật…, có mấy triệu tín đồ trên khắp thế giới và cả Việt Nam nữa, có hai chục triệu đô la trong ngân hàng, có hàng trăm cơ sở vật chất khắp nhiều quốc gia.
Bây giờ chúng tôi mới hiểu tại sao Nhất Hạnh lắm khi tỏ ra vô cùng trẻ con và nhảm nhí – bởi vì xung quanh Nhất Hạnh là một vòng vây của những tu sỹ như Hoàng Văn Giàu, sẵn sàng tung hô vạn tuế Nhất Hạnh và Chân Không mà không ngượng miệng. Sự kiện này khiến chúng ta nhớ tới Vi Tiểu Bảo tung hô Hồng Giáo chủ Và phu nhân trong Lộc Đỉnh Ký của Kim Dung.
Xin dành phần tư duy cho quý vị thiện tri thức!

6. - Văn nghệ văn gừng.
Tất cả tưởng cũng như sách vở bài giảng của tập đoàn Làng Mai đều xây dựng trên nền tảng văn gừng văn nghệ, nghĩa là sử dụng sức mạnh của chữ nghĩa lòe lọet màu mè và thủ pháp lộng ngôn, hư cấu, cường điệu, để thu huta quần chúng, chứ thực chất thì rỗng tuếch, chẳng có gì sâu xa, thâm trầm uyên áo cả!
Ngay cả Nhất Hạnh cũng dành trọn cuộc đời tu hành của mình cho một nỗi đam mê gọi là “văn gừng văn nghệ”, do đó chúng ta có thể nói, “chủ nghĩa Nhất Hạnh tức là chủ nghĩa Văn Gừng Văn Nghệ”.
Ví như: ai cũng làm thơ thiền, thơ truyền đăng, thơ tâm chứng, rồi tập tành thư pháp,.
Ngôn ngữ dùng để chuyển tải tư tưởng của Nhất Hạnh đều là thứ ngôn ngữ sặc mùi Công Tôn Long - nhà ngụy biện lừng danh thời Chiến Quốc bên Tàu – dùng văn nghẹ văn gừng để ám ốp tâm hồn thính giả và độc giả, chú trọng công việc biểu diễn trò xiếc chữ nghĩa : Nhất Hạnh giảng kinh để người tat u tập mà… sử dụng thủ pháp tưởng tượng quá nhiều, ăn nói lớn lối, khoa đại, không có thực chất tâm linh. Tội nghiệp chon hững người trót tin vào chiếc áo nâu của ông ta!
Trong buổi trình diễn tại trung tâm Festival Huế, Nhất Hạnh nói: (trích tạp chí Văn hóa Phật giáo, số 2)
- Tôi thiền hành từng bước trên đồi Dương Xuân và làm thơ. Mỗi bước chân giúp tôi tiếp xúc với quê hương. Và mỗi bước chân như vậy là mỗi bài thơ. Tôi làm thơ bằng hai chân của tôi… Mỗi hơi thở như vậy là mỗi bài thơ. Không có phút giay nào trong ngày là tôi không làm thơ, làm thơ bằng hơi thở, làm thơ bằng bước chân, làm thơ bằng ánh mắt nhìn, làm thơ bằng lời trao đổi cho thế hệ trẻ.
(Trích Tạp chí Văn hóa Phật giáo số 2, tháng 3/2005, trang 20)
Thiết nghĩ, đây là cái giọng của nhà thơ chứ không phải ngôn từ của một nhà tu, một vị pháp sư thuyết pháp để cho người ta tu tập theo Phật giáo. Nếu ngài cứ tiếp tục ăn nói “mơ hồ, ảo mộng” như vậy, thì chúng sanh chẳng biết đường đâu mà mò!
Thời xưa, ở Trung Quốc, quý vị tăng sỹ nhà Phật cũng đã xảy ra những hiện trạng này, cho nên:
Trong bài viết nhan đề Tăng Tập trong quyển Trúc Song Tùy Bút, đại sư Vân Thê (sau này được tôn xưng là Tổ Liên Trì của Tịnh độ tông) nói:
Tăng thời mạt pháp hay tập tành vẽ chữ, làm thơ, viết thư pháp. Đó đều là việc của kẻ sĩ phu quan viên ở đời. Người ta còn bỏ đi, chẳng huân tập thêm chi vô dụng mà hãy để thời gian dành vào việc thực tập Thiền.
Nay những người xuất gia làm Tăng mà trở lại có công luyện cái mà người ta đã bỏ ấy, những công việc nằm ngoài phận sự chính của mình, là việc lớn sanh tử (sanh tử sự đại). Cớ gì điên đảo như vậy?
(Ngẫu Ích Đại Sư, hành trạng và pháp ngữ)
Chư vị tổ sư ngày xưa thường răn đe người xuất gia không nên chìm đắm trong các trò chơi chữ nghĩa như ngâm vịnh, ca hát hò vè, thơ phú, vă chương - hoặc giả nếu vì nhu cầu hoằng pháp lợi sanh, thì cũng có thể sử dụng thơ văn như là phương tiện để “khuyến tu” hay để chuyển tải ý nghĩa thâm sâu của đạo phật.
Bởi vì văn chương là một lưỡi dao hai lưỡi, nó có thể mang lại chút ít lợi ích nào đó, mà cũng có thể làm tổn hại con đường tu tập về lâu dài.
Một sự thật là: trong quá khứ đã có nhiều vị thiền sư Việt Nam đã bị “bể bình bát” tức là bị dính líu tới nữ sắc bởi vì lý do duy nhất là đam mê văn chương thi phú.
Tại sao như vậy?
Như chúng ta đã biết, con người ngày nay vốn nặng nề “tưởng ấm”, nếu bị lụy vào chữ nghĩa thì vô tình sẽ làm gia tăng năng lực phản động của Tưởng Ấm lên gấp bội. Khi năng lực Tưởng Ấm được phát triển và thả nổi, thì ảo ảnh tâm thức của chúng ta đi vào “đường ma lối quỷ” vô cùng nhanh chóng.
Kết quả là chúng ta sẽ dễ dàng sa ngã và phạm đại giới lúc nào không biết!
Xứ Huế nổi tiếng có nhiều vị cao tăng giới luật nghiêm cẩn, có trình độ tu chứng thâm sâu, đã đóng góp nhiều công trình vĩ đại và sự nghiệp tâm linh huyên áo cho đạo pháp và dân tộc, nhưng ngày cái xứ Huế này cũng đã xuất hiện nhiều vị thiền sư “bị bể bình bát” chỉ vì… giỏi thơ văn. (Mà Nhất Hạnh là một trong số những người ấy).
Tội nghiệp cho họ và buồn thay cho chúng ta, bởi vì họ không chịu hoàn tục (ở chùa nhàn hạ, thảnh thơi và có địa vị, chức tước quen thói rồi, nếu hoàn tục thì vấn đề cơm áo và danh lợi sẽ giải quyết ra sao?) mà vẫn duy trì nếp sống tu hành giả trá, đồng thời vẫn liên hệ và sinh hoạt với… vợ con, đương nhiên là buộc phải giấu diễm xa xa một chút để khỏi bị lộ. mặc dù những người phật tử cư sỹ thì kiếm thì giờ đâu để “điều tra, dò xét”, nhưng quý vị thiền sư ấy vẫn đeo đẳng mặc cảm tội lỗi trong tâm hồn và không bao giờ cảm thấy cuộc sống ở chùa tỏ ra thanh thẩn, tự tại cả!
Ngài Hán Sơn đại sư khi mới “ngộ”, bỗng dưng ngài thấy toàn thể không gian này đều là chữ nghĩa với chữ nghĩa. Tất cả pháp giới này đều được giăng mắc và phong kín bởi chữ nghĩa. Ngay lúc ấy, không biết bao nhiêu tứ thơ và vô số bài văn bỗng dưng xuất hiện, trong thoáng chốc ngài bèn viết ra mấy chục bài thơ mà lòng mình cảm thấy không thể dừng lại nổi. Nnguy hiểm quá!
Ngài vô cùng tỉnh giác, và biết rằng đây là “Con Ma Chữ Nghĩa” nó đang xuất hiện để quấy nhiễu mình. Ngài bèn vung mạnh tay, xé tất cả những bài thơ vừa sang tác, chỉ lưu giữ lại chỉ một bài thôi, rồi leo lên bồ đoàn tọa thiền lập tức, không dám chậm trễ.
Nếu chậm chân một bước thì ngài sẽ bị rơi vào “cuồng thiền” rồi bị con ma chữ nghĩa hành hạ cho đến trọn đời mà không thể cậy ai cứu giúp được!
Câu chuyện này được trích dẫn từ phận Tự Truyện của ngài Hán Sơn như sau:
Vào năm 1756, tôi ba mươi tuổi. Mặc dù tôi đã đạt được kinh nghiệm “Ngộ” này, nhưng không có thấy để chứng cho. Vì thế, tôi đọc kinh Lăng Nghiêm (Suràngama sutra) với hy vọng khảo sát lại kinh nghiệm “Ngộ” của mình bằng kinh này (…).
Vào tháng mười năm ấy, thí chủ của tôi là Hồ Binh Sứ mời tôi đến nhà ngài. Bạn ngài là Cao tiên sinh yêu cầu tôi viết cho một bài thơ. Tôi đáp: “Hiện giờ trong tâm tôi không có lấy một chữ. Làm sao tôi làm thơ được?”
Tuy nhiên, cả tiên sinh và Hồ Binh Sứ khẩn khoản nài nỉ tôi viết cho một bài thơ. Họ khẩn khoản mãi khiến tôi không từ chối được. Tôi bèn liếc mắt qua vài sách thơ cổ kim để kích thích tư tưởng. Trong khi tình cờ lật những trang sách, tâm tôi bỗng tập trung vào cảm hứng. Nguồn thơ lai láng, nên chỉ vài phút sau, khi Hồ Binh Sứ trở lại, tôi đã viết đến hai mươi bài thơ.
Bỗng tôi nhận ra sự nguy hiểm của việc này và tự cảnh giác: “Côi chừng, đây đúng là Con Ma ngôn ngữ, cái tập quán tư tưởng của ngươi đang mê hoặc ngươi đó”.
Lập tức tôi ngừng viết. Tôi chỉ đưa một bài thơ cho Cao tiên sinh và giữ bí mật những bài thơ còn lại. Tuy nhiên, hình như tôi không ngừng được sự tuôn trào của cảm hứng mà tôi đã khơi dậy. Như thể là tất cả thơ, sách vở ngôn cú mà tôi đã từng học hoặc thấy trong đời tôi đồng loạt hiện tiền, tràn đầy không gian. Dù cho tôi có cả ngàn miệng khắp thân thể đi nữa, tôi cũng không thể nói hết cho được. Bàng hoàng, tôi không còn phân biệt được đâu là thân đâu là tâm. Tự quan sát, tôi có cảm tưởng như tôi sắp bay vọt. Tôi không biết phải làm gì.
Sáng hôm sau tôi tự nghĩ: “Đây đúng là cái mà thầy Pháp Quang gọi là Thiền Bệnh. Hiện mình đang bị rơi vào đó. Ôi, ai có thể chữa khỏi cho mình? Bởi vì không có ai ở đây có thể chữa được, thôi thì chỉ biết ngủ - ngủ lâu và ngon hết sức. Nếu mình ngủ được vậy hẳn là may mắn biết nhường nào!”.
Nằm không ngủ được, tôi bèn ngồi kiết già. Chả mấy chốc tôi quên mình là đang ngồi và ngủ thiếp đi một cách ngon lành.
Cuối cùng, năm ngày sau đó, Hồi Binh Sứ trở về, thấy Hám Sơn ngủ gì mà ngủ tới năm ngày, bèn cố làm cho đại sư Hám Sơn thức dậy. Hồ Binh Sứ nhớ tới lời dặn của đại sư, khi cần đánh thức một hành giả Thiền trong cơn mê, ông ta liền “… giơ cái chuông ngang tai tôi lắc nhẹ đều tiếng. Dần dần tôi thức tỉnh. Khi mở mắt ra, tôi không biết mình đang ở đâu và tại sao tôi lại ở trong hoàn cảnh này”.
(Thiền đạo Tu tập, Tác giả Chang Chen Chi, bản dịch Như Hạnh,
Kinh Thi xuất bản, Saigon 1972, trang 206 – 207).
Quan kinh nghiệm của ngài Hám Sơn vừa kể, chúng ta thấy Chữ Nghĩa chính là lợi khí để hoằng pháp, nhưng đồng thời nó cũng là con ma vô cùng hiểm trá. Đây là điều mà người tu theo Phật nên chú tâm cảnh giác cao độ, nếu không thì sẽ rơi vào lầm lạc biết đến kiếp nào mới thoát ra khỏi?

7. Không tin nhận cảnh giới chư Phật, như cõi Cực Lạc chẳng hạn.
Tập đoàn Làng Mai và cả sư cô Chân Không luôn luôn bị chối tai khi nghe bất kỳ ai xưng niệm Nam Mô A Di Đà Phật!
Lần nọ, một bà cụ Phật tử gốc Hà Nội, 92 tuỏi, ăn chay niệm Phật đã hơn 60 năm, vốn ái mộ tập đoàn Làng Mai và đã thân hành đi tới tận nơi để bái kiến người phụ nữ Chân Không nổi tiếng là “đạo cao đức trọng”.
Bởi vì quá xúc động, sau khi cung kính đảnh lễ, bà ta cúi đầu vái vái và cảm thán, lẩm bẩm: Nam Mô A Di Đà Phật … Nam Mô A Di Đà Phật!
Lập tức sư cô Chân Không đanh mặt quở:
- Ơ cái bà này! Tu hành mấy chục năm nay, mà cái chữ Phật cũng chưa bỏ được. Bà không được niệm Phật như vậy nữa, nghe không?
Bà cụ bật ngửa, khiếp hãi cực độ, vội cúi đầu, lắp bắp luôn mồm (có lẽ là run lập cập):
- Vâng… vâng… Tôi sẽ không nhắc tới chữ Phật nữa! Nam Mô A Di Đà Phật! Vâng, Nam Mô A Di Đà Phật… Nam Mô A Di Đà Phật… Nam Mô A Di Đà Phật…
Sao thể? Tại sao bà Chân Không lại ghét cay ghét đắng Danh hiệu Phật đến như vậy? Một người tu theo đức Phật mà dị ứng khi nghe danh hiệu Phật, vậy thì họ có phải là Phật tử không? Và họ nên rung động trước cái gì?
Trong một bài giảng tại chùa Hoằng Pháp mà đối tượng là những người cư sỹ Phật tử, Nhất Hạnh đã nói:
- Tôi không tin vào một cõi Cực Lạc hay Niết Bàn nào cả. Khi lòng tôi an lạc, tươi mát… thì đây là Cực Lạc rồi, là Niết Bàn rồi… (đại khái).
Thật ra Cực Lạc là gì? Ở đâu?
Không phải Nhất Hạnh không biết mà chủ vì lý do “bảo vệ thương hiệu của mình”, mà Nhất Hạnh cố ý lãng quên và đành tâm chối bỏ cảnh giới Cực Lạc, phủ nhận luôn cả “tư tưởng hệ Tịnh Độ”, vốn đã trở thành niềm tin truyền thống của những người Phật tử Việt Nam nói chung cũng như xứ Huế nói riêng.
Ngài Trí Quang thượng nhân viết:
“Với cái nghĩa “ra khỏi rừng rậm phiền não”, phiền não diệt mà không sinh ra nữa, niết bàn đích thực là mục đích của Phật pháp. Phiền não mà diệt, là có mặt diệt về trí tuệ vì trí tuệ quyết trạch (gọi là trạch diệt vô vi), lại cũng có mặt diệt vì thiếu cho đến không còn yếu tố phát sinh nên phiền não không sinh ra nữa (gọi là phi trạch diệt vô vi). Tịnh Độ và sự sinh Tịnh Độ là cả hai mặt ấy, nhất là mặt sau.
Cực Lạc là cảnh giới Niết bàn phi trạch diệt vô vi. Đó là thượng thiện xứ toàn thượng thiện nhân. Ở đó không có yếu tố thiên nhiên và nhân tạo để có thể khởi ra vô minh phiền não. Ở đó đầy đủ và cực kỳ hoàn mỹ, về 4 thành pháp đã dẫn.
Và đó là nói Cực Lạc ở hướng Tây. Nếu nói là vãng sanh Cực Lạc tức là sinh Cực Lạc ngay nơi cõi này, ngay nơi sinh tử giới, thì Cực Lạc là quảng đại vô biên tế, là hoa tạng thế giới …(Đại chính Tân Tu Đại Tạng Kinh,26/230 và 233). Cõi người mà chư Thiên ở trên cao cách cả trăm do- tuần vẫn nghe hôi hơn mùi nhà xí, cõi người ấy, người niệm A Di Đà vãng sanh Cực Lạc ngay ở đấy, và chỉ thấy đó là cõi Cực Lạc của mình.
Do đó, một điều đáng buồn xảy ra, khi nhiều Phật tử đã nhầm lẫn rằng , “Vãng sanh Cực Lạc” có ý nghĩa tương tự như thác sanh lên cõi Trời (thiên đường), nhưng có thể là một cõi trời khác của Tiểu thừa! Điều ngộ nhận này cũng bị các vị Thiền sư mắc phải, khi họ thuyết pháp và viết sách công kích chủ trương vãng sanh Cực Lạc của tông Niệm Phật Tịnh Độ. Họ phê phán rằng, vãng sanh Cực Lạc là tiêu cực, trốn khổ tìm vui, bỏ đây mà chấp kia, trong khi chủ trương của đạo Phật là: Phật pháp tại thế gian, bất ly thế gian giác. (nhại theo giọng điệu lục tổ Huệ Năng).
Ngay trong giới thượng tọa đạo cao chức trọng, từng du học Ấn độ trở về, cũng chẳng hiểu chút chi về Tịnh Độ mà lại viết sách cho rằng Cực Lạc chính là cõi Trời gọi là “Ngũ Hòa Bất Thiên”! Đến nỗi, ngài Trí Quang thượng nhân phải nặng lời cảnh báo:
“Cực Lạc có lạc gì đâu đối với người cần kiếm lạc thú. Ở đó không có nữ nhân. Ở đó không có đấu tranh. Ở đó chim kêu gió thổi cũng là Phật pháp.
Có gì là lạc thú đâu. Do vậy, mà kể nào nhận định rằng Cực Lạc phát triển từ phước cảnh chư Thiên, kẻ ấy phi vô học thì cũng là kẻ phỉ báng đối với Phật pháp”. (trích từ bản dịch Hai Thời Công Phu của Trí quang thượng nhân).

8. - Lập lờ giữa Phật pháp và thế gian Pháp.
Nếu bỏ công nghiên cứu triệt để Chủ nghĩa Nhất Hạnh, chúng ta sẽ thấy đó là những bài học làm người, hoặc giáo dục tâm-sinh-lý dành cho thanh niên, chứ không phải là Phật pháp chân thật. Trước Nhất Hạnh đã có ông Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Duy Cần, Hoàng Xuân Việt, đã phiên dịch rất nhiều tác phẩm về đề tài này. Nhưng khi Nhất Hạnh đã pha trộn với giáo lý nhà Phật bằng khả năng văn thơ của mình, thì nghe có vẻ dễ chịu, dễ xúc cảm hơn nhiều.
Gần đây nhất, có tác phẩm “GIẬN”, được Nhất Hạnh tự hào là “đã bán hơn một triệu cuốn tại Hàn Quốc”, “tại Mỹ cũng đã phát hành hơn triệu ấn bản”, - nhưng thực chất, cuốn sách này mang tính cách phân tâm học, dạy người ta sử dụng thủ thuật tâm lý học Tây phương để đối trị cơn giận, hơn là thực hành theo lời dạy của đức Phật để phát triển từ tâm, khai mở trí tuệ vô lậu.
Phần nhiều là những thủ thuật do nhà văn Nhất Hạnh tưởng tượng ra, mục đích lòe bịp chúng sanh chứ thực tế thì không thể áp dụng được tí nào!
Và cũng chẳng có ai áp dụng được, bởi vì trên phương diện chữ nghĩa thì đọc rất thú vị, gay cấn, nhưng ngay bản thân ngài giáo chủ Nhất Hạnh cũng chưa hề thực tập thành công lần nào. (Ai muốn biết rõ hơn về sự kiện Nhất Hạnh nổi cơn thịnh nộ ngay trước mắt quần chúng – không thể kiềm chế nổi cơn giận – chứng tỏ nhà đạo sư không hề thực tập những bài học mà bản thân từng đem ra giảng dạy những người khác, thì hãy trực tiếp hỏi ông Nguyễn Văn Dũng, giáo sư Karatedo – do hiện cư ngụ tại đường Trương Định, Huế - để biết đạo sư Nhất Hạnh đã nổi sân như thế nào khi nghe ông Dũng cung kính và thành thực đặt một câu hỏi rất bình thường: Rằng thì là… bài thơ kia có phải là của hòa thượng sáng tác 40 năm trước không? Thế mà đạo sư Nhất Hạnh bỗng dưng nổi tam bành lục tặc, đỏ má tía tai, khiến hơn 2. 000 khán thính giả vỡ mặt bất ngờ và cái camera chẳng tắt kịp. Hôm ấy là buổi trình diễn của Nhất Hạnh tại Trung tâm Festival Huế, đầu tháng 3/2005).
Về sự kiện hi hữu này, có người cắc cớ hỏi:
- Tại sao ông Nhất Hạnh viết sách dạy thiên hạ chuyển hóa cơn giận – thế mà bản thân ông Nhất Hạnh thì lại không thể kềm chế nổi cơn giận như dzậy?
Ai đó bỗng cười khà khà:
- Ông ta viết sách để dạy tất cả mọi người, muốn ai nấy đều thực hành theo lời dạy của mình. Nhưng, chính bản thân Nhất Hạnh thì lại sống và thực hành theo lời dạy của bà cô Chân Không!
Nhất Hạnh muốn thiên hạ phải nghe theo mình, nhưng chính bản thân Nhất Hạnh thì lại tự nguyện vâng lời mụ vợ! nực cười thay!

9. - Vô cùng nhảm nhí.
Thanh hải vô thượng sư là chuyên gia đệ nhất trong việc sản xuất những loại hàng hóa nhảm nhí, trong số đó, có món độc đáo nhất, đó là “Truyền Tâm Ấn”. Món này được tuần báo An Ninh Thế Giới phanh phui bằng mấy bài điều tra vào mấy năm trước. Nhưng nhiều chúng sanh vẫn bị gạt như thường. Và Nhất Hạnh cũng bước vào vết xe đổ ấy, bằng cách “tung hê bùa phép” với các đệ tử bằng hình thức ấu trĩ gọi là “Truyền Đăng”.
Thanh Hải vô thượng sư thì có đặc sản “truyền tâm ấn”, Nhất Hạnh thì sáng tác bài kệ “Truyền Đăng” khi tấn phong đệ tử làm Giáo thọ, còn giáo chủ Nhật nguyệt thần giáo Nhậm Ngã Hành thì ban tặng mỗi đệ tử một viên thuốc quý báu Tam thi não thần đan.
Sao mà họ tỏ ra nhảm nhí giống hệt nhau quá!

10. - Hạ thấp bản chất tâm linh của đạo Phật.
Ví dụ: Như bài giảng Bốn câu thần chú” chẳng hạn, (đã nói ở phần trước), đây không phải là Phật pháp, mà chỉ là theed gian pháp qua bàn tay ảo thuật của Nhất Hạnh và ngụy tạo vỏ ngoài bằng nhãn hiêu, đạo Phật – thế thôi. Dường như tư tưởng chính yếu của chủ nghĩa Nhất Hạnh đều cố tình hạ thấp bản chất giải thoát và chứng ngộ của đức Phật. Trọn một đời, ông ta thực hiện những công việc như vậy, để làm gì?
Xin chờ đợi câu trả lời của quý vị thiện tri thức.
Riêng chúng tôi nghĩ rằng, để trở thành một vị tăng nổi tiếng, tức là Danh Tăng của tất cả mọi thời đại mà Nhất Hạnh đã làm bất cứ điều gì, kể cả việc hạ thấp bản chất tâm linh của đạo Phật. Và trên con đường thực hiện ý đồ đen tối của mình, Nhất Hạnh đã khai trương một loại hình tà môn ngoại đạo mang nhãn hiệu Phật giáo!
Mời quý vị đọc một lời cảnh báo khẩn cấp của hòa thượng Tịnh Không như sau, khi nhận xét về những loại Phật giáo đang hiện diện trên thế gian ngày nay:
Có bốn loại Phật giáo trên thế giới hiện nay:
Thứ nhất: là Đạo Phật đích thật, nền giáo sục về hiểu biết chân lý của đời sống vũ trụ. Nhưng có mấy ai hội đủ phước đức nhân duyên để gặp gỡ rồi nhận lãnh và tu học theo loại Đạo Phật này?
Thứ hai: là Đạo Phật mang tính cách tín ngưỡng tôn giáo- thiên về cúng dường và cầu phước – đây là hình thức của một loại đạo Phật phổ biến mà chúng ta thường thấy ở các quốc gia Đông Nam Châu Á.
Thứ ba: là loại Đạo Phật mang tính cách học thuật, triết học, được giảng dạy khắp các viện đại học trên thế giới, như một phân khoa của Khoa Học Nhân Văn hoặc Khoa Học Xã Hội.
Thứ tư: đây là một thứ tà môn ngoại đạo,bóp méo đạo Phật trở thành một giáo phái. Hình thái lệch lạc này xuất hiện trên thế giới khoảng bốn mươi năm nay. Việc khai thác đạo Phật như là một tà giáo đã đi quá xa, người ta nhân danh Phật giáo, lợi dụng bản tính yếu mềm của con người, họ tạo ra những chiêu bài để lừa bịp người tin, làm tổn hại đến mọi người, gây nhiễu loạn cho xã hội.
Lối tuyên truyền và hoạt động của họ nghe rất hấp dẫn và lôi cuốn. Tuy nhiên, nếu chúng ta thực hành theo họ chắc chắn chúng ta phải chịu đọa lạc. khi chúng ta nhận ra được sai lầm thì tai họa đã đén bên lưng rồi, dẫu hối hận thì cũng đã muộn. Do vậy, chúng ta phải biết biện biệt một cách khôn ngoan, rồi chọn lựa ra một pháp mình sẽ thực hành, ngõ hầu đem lại lợi ích chân chính.
(Trích cuốn “Nhận Thức Phật Giáo”, Chương 3,
bản Việt dịch của Đại đức Thích Nhuận Châu, tịnh thất Từ Nghiêm, Long Thành).
Hòa thượng Tịnh Không phát lời cảnh báo này là cốt nhắm vào các giáo phái tà môn như Thanh Hải, Lương Sỹ Hằng ở Hoa Kỳ, Hương Công ở Đài Loan, Tịnh Vương Nhất Tôn, Chơn Tánh Nguyên Hương, Nhất Hạnh và Thanh Từ ở Việt Nam…đồng thời cũng là tiếng chuông báo động của một bậc pháp sư Bồ tát trước những làn song nguy hiểm, tai hại của một loại Phật giáo chế biến, lầm lạc, tương tự như “Chủ thuyết Nhất Hạnh” vậy.
Đây cũng là điều mà ngày xưa ngài Ngẫu Ích đại sư đã từng thống liệt quở trách khi thấy những bọn thầy tu kém đức kém học mà đòi sửa đổi giáo lý của Như Lai cho phù hợp với tầm nhìn nhỏ hẹp của mình và yêu cầu cạn cợt của chúng sanh đương thời:
“…bỏ văn bản xưa cũ của bậc tiên triết, lại ngụy tạo văn bản mới, chỉ luống tai sướng miệng một thời mà thôi, làm cho Thiền môn bị quở là giây leo, cám trấu.
Sự trước thuật của tong môn vốn vì hàng thượng thượng căn mà chỉ bày ngay Thật tánh. Ngày nay chỉ làm việc mở bày môn đình, bàn luận đạo lý; nếu chẳng rơi vào “cuồng vọng vô tri” thì cũng đọa “tri kiến tạp độc”.
Còn có kẻ bỏ đi sự thi thiết giảng giải của tiền nhân, không chịu học tập thì phần nhiều bọn họ đều rơi vào “lỗi quấy chứng lầm, tu mù luyện bậy”, quả thậ là con đường nguy hiểm. Diệu pháp vô tuệ vì thế cũng bị lưu tệ từ đây.
(Ngẫu Ích Đại Sư, hành trạng và pháp ngữ)

11. - Lạm dụng chữ Thiền.
Trọn đời Nhất Hạnh chỉ biết tận tâm với việc sáng chế ra những sản phẩm “hoang toàng” mà ông ta tự hào rằng kỳ đặc, xuất sắc! Như là: Thiền Đi, Thiền Ngồi, Thiền Ăn, Thiền Trà, Thiền Làm Việc, Thiền Ôm, Thiền Buông Trôi, Thiền Làm Biếng, Thiền Lấy Vợ, Thiền Dối Trá, Thiền Dấu Diếm, Thiền Hoa Hòe Hoa Sói, Thiền Tiếp Thị, Thiền Khuyến Mãi, Thiền Bị Lộ, Thiền Lừa Phỉnh, những mô típ bịa đặt không cần thiết này thường làm cho kẻ sơ cơ lóa mắt và lấy làm kỳ đặc, nhưng lại khiến cho những người trí thức Phật tử Việt Nam cảm thấy khôi hài đến độ đau lòng, xót dạ!
Đây là công việc mà Nhất Hạnh và Thanh Từ cho rằng: mình đang phục hồi Thiền tông cho đất nước Việt Nam! Dưới con mắt kiến chấp của mình, Nhất Hạnh và Thanh Từ ngạo mạn cho rằng, chỉ có bản thân mình và môn phái của mình mới tu tập thiền định mà thôi!
Hòa thượng Tịnh Không nói: Thật là sai lầm khi cho rằng chỉ có Thiền tông mới tu tập thiền định. Đúng ra, tất cả các Tông phải khác của Phật giáo đều tu tập thiền định. Tịnh Độ tông dùng phương pháp Niệm phật để đạt nhất tâm bất loạn, đó là một cách tập thiền định. Thiên Thai tông thực hành Chỉ Quán, đó là một cách tu tập thiền định. Mật Tông dùng tam mật tương ưng, đó chính là tu tập thiền định. Nên nhớ: mỗi Tông phái, mỗi Pháp môn dùng tên gọi khác nhau nhưng đều tu tập thiền định cả! Do vậy, trong Lục Độ Ba La Mật thì thiền định luôn luôn bao quát tất cả phương diện kia, và các “độ” khác đều không tách rời khỏi thiền định bởi vì thiền định luôn luôn liên quan đến tất cả sinh hoạt của những người tu Phật”.
(Trích cuốn “Nhận thức Phật giáo”)

12. - Xem nhẹ niềm tin và giá trị tâm linh truyền thống của đạo Phật.
A - Hủy bỏ Hai Thời Công Phu:
Hủy bỏ Hai Thời Công Phu, là hành động điên rồ của Nhất Hạnh mà cũng là cái xuẩn động của Thanh Từ, mà Giáo Hội Phật giáo chưa hề lên tiếng gì cả! (Chúng tôi đã nói nhiều về vấn đề này trong những chương trước, xin miễn lập lại).
Còn tác giả Chơn Thiện thì đề nghị thay lời khóa tu Tịnh độ buổi tối bằng Tu tập Tứ Niệm Xứ. Quả là “một lời đề nghị khiếm nhã” cho những người hiện đang thực hành pháp môn Niệm Phật Tịnh độ.
Chúng tôi thiết nghĩ, ai tu Tứ Niệm Xứ thì cứ tiếp tục hành trì như vậy, còn ai tín ngưỡng Phật tịnh độ thì cứ y như thế mà cầu nguyện vãn sanh!
Tại sao phải thay đổi? Đường nào chẳng về tới La Mã? Pháp nào của đức Phật mà không dẫn tới Niết bàn vô sanh?
Cung thỉnh quý vị đọc cuốn PHẬT HỌC KHÁI LUẬN, của tác giả Thích Chơn Thiện, trng 420, phần cuối cùng của chương Tứ Niệm Xứ, để thấy cái nhìn chật hẹp của một vị Tiến sỹ từng du học Ấn-độ.
B - Không tôn trọng Bát Kỉnh Pháp do đức Phật chế tác.
Nhưng điên rồ nhất là sự kiện Nhất Hạnh đã phá hủy Bát Kỉnh Pháp do chính đức bổn sư chế tác.
Chúng tôi nghe chư vị tôn túc kể rằng, Nhất hạnh giáo huấn các các đệ tử Tỳ - kheo của mình phải khom mình sát đất để lễ sư cô Chân Không!
Dường như đây là điểm độc đáo tuyệt thế hi hữu của Nhất Hạnh, chưa hề xảy ra tren thế giới: Tỳ-kheo tăng phải lạy một Tỳ-kheo ni! Sự kiện này đã đi ngược lại với giới luật của đức Phật, một việc chưa có một bậc thầy nào thực hiện bao giờ!
Khinh chê tín ngưỡng Thiền Tịnh truyền thống của Phật tử Huế, chứng tỏ tầm nhìn hạnh hẹp và cố chấp của những người nô lệ Tây học như Nhất Hạnh. Xin lắng nghe lời dặn dò thống thiết của bậc chứng ngộ:
Trong bối cảnh thời đại ngày càng khủng hoảng, tong nào cũng có chiều hướng suy tàn, căn tánh phần nhiều giải đãi, yếu đuối, liệu có nhiều người đủ nghị lực dòng mãnh mà hành thiền để thể nhập bản tâm, chịu học giáo nghĩa sâu rộng trong kinh điển để thâm chứng Phật lý, cứ giữ giới luật nghiêm minh để trở thành bạc thầy mô phạm cho nhân thiên hay không?
Hay là chỉ đạt được trạng thái chú tâm nào đó, nắm được giáo lý chừng mực nào đó… rồi tự mãn, bằng long với Hóa Thành, không bước tiếp treencon đường tiến về Bảo sở.
Đời này không giải quyết tận cùng đại sự, thì giữa đêm tối sanh tử mịt mờ,chỉ còn duy nhất chiếc phao hồi hướng phát nguyện vãng sanh là có thể bám víu mà thôi.
Đại sư Thiên Như còn nhấn mạnh cùng vị đồng tu: Sau khi ngộ dạo mà không nguyện vãn sanh, tôi dám đảm bảo lão huynh chưa ngộ!
(Trích “Ngẫu Ích Đại Sư, hành trạng và pháp ngữ”
Luận văn tốt nghiệp của soạn giả Thích Định Thông)

13. - Toàn bộ tập đoàn Làng Mai đều có thái độ ngã mạn vô cùng!
Trong tập đoàn Lang Mai, ai cũng có thái đọ tự mãn bởi vì họ luôn luôn cho mình “đã về, đã tới”.
Vị giáo chủ Nhất Hạnh thì “cái ngã đã to lớn vô cùng” cho bản than mình là đệ nhất thiên hạ, mọi người đều phải vâng lời, không được bày tỏ ý kiến riêng tư.
Một vị Thượng tọa trụ trì một ngôi chùa lớn ở Huế cho biết:
- Tôi được dịp sống kề cận Ngài Nhất Hạnh gần một tháng trong suốt thời gian ngài ở Huế, tôi thấy ngài đúng là bậc thiên tài của Phật giáo cũng như của Việt Nam. Nhưng rất tiếc ngài có khuyết điểm là tự cao tự đại quá mức, luôn luôn bày tỏ thái độ “mục hạ vô nhân”, không coi ai ra gì, chẳng bao giờ xem ai ngang tầm với mình”. (nguyên văn)
Có người bảo: Nhất Hạnh tự cao và tự mãn vô cùng, không xem ai ra gì - dĩ nhiên ngoại trừ một người phụ nữ: đó là Hoàng Hậu Chân Không Sư cô!
Sư cô Chân Không cũng lại là kẻ phách lối đệ nhất, nhưng bà ni này lại biểu hiện bằng phong cách khác, cũng chẳng coi ai ra gì, ngay cả đạo sư Nhất Hạnh cũng bị bà ta khống chế và chỉ đạo diễn xuất.
Và như vậy, các vị tu học tại Làng Mai ai cũng cho rằng, pháp tu của mình là “siêu” nhất, “đạt” nhất, “đã về, đã tới”, “màu nhiệm”, “an lạc”,. . .
Đạo Phật dạy rằng, Bám Víu Cái Ngã là nguyên do khiến mọi người bị sanh tử luân hồi và gây ra không biết bao nhiêu thảm họa cho kiếp sống nhân sinh.
Thật vậy, đế vương mà kiêu căng ngã mạn thì các bậc hiền tài không chịu phò tá, quốc gia sớm bị suy tàn. Làm quan mà kiêu căng ngã mạn thì sớm chuốc tai họa và lien lụy tới bách tánh muôn dân.
Kẻ sỹ mà kiêu căng ngã mạn thì học hành không thấu đáo và chắc chắn trước sau gì cũng rơi vào lầm lẫn, thất bại.
Anh hung mà kiêu căng ngã mạn thì dễ bị địch nhân lợi dụng sơ hở tấn công bất ngờ trên chiến địa, hoặc bị bạn đồng liêu ám hại trong triều đình, trướng phủ.
Giai nhân mà kiêu căng ngã mạn thì bị thất sủng và phế truất, đày vào lãnh cung. Kẻ tôi tớ mà kiêu căng ngã mạn thì bị chủ ghét bỏ, rồi dẫn tới đói rách, bần cùng.
Còn tu sỹ Phật giáo mà kiêu căng ngã mạn thì sẽ ra sao?
Không! Một vị Tỳ-kheo chân chánh thì không thể ngã mạn. Nếu ông ta thường tỏ ra ngã mạn thì ông ta không phải là một vị Tỳ-kheo thực sự.
Thánh Gandhi nói :
“người tìm chân lý phải tự xem mình hèn mọn hơn cả bụi cát. Vũ trụ nghền nát cái cát bụi dưới chân mình, nhưng kẻ đi tìm Chân lý thì phải nghĩ mình nhỏ nhoi đến độ ngay cả chân lý cũng có thể nghiền nát mình. CHỉ khi ấy, cho đến khi ấy, y mới có một tia sang nào của chân lý”. (Trích Tự truyện Gandhi, Ni sư Trí Hải dịch, Quế Sơn Võ Tánh Saigon, xuất bản 1971).
Đạo Phật dạy : “Tôn trọng và thừa sự chúng sanh chính là tôn trọng và thừa sự Như Lai. Làm cho chúng sanh hoan hỷ, tức là lam cho chư Phật hoan hỷ”.
(Kinh Hoa Nghiêm, Phổ Hiền Bồ-tát Hạnh nguyện phẩm).
Khi một người đã chấp nhận giáo huấn này mà bước tiến tu học, thì làm sao ó thái độ ngã mạn, kiêu căng cho được?
Một tu sỹ Phật giáo mà tỏ ra kiêu căng ngã mạn thì vị ấy không phải là tu sỹ Phật giáo.
Một người thực hành theo đạo Phật dẫu là tu sỹ hoặc cư sỹ tại gia, nếu luôn luôn tỏ ra kiêu căng ngã mạn, thì người ấy không phải là Phật Tử, huống hồ nói chi đến đạo sư, diễn giả, giáo chủ một môn phái gọi là Tăng Thân Làng Mai!
Ngược lại, những người thực sự tu hành thì không những không bao giờ bộc lộ thái độ ngã mạn,mà luôn luôn tỏ ra mình là con người biết hổ thẹn. Vì biết hổ thẹn cho nên thường biết khiêm cung.
Nhà văn J. M Coetzee nói :
“Hổ thẹn có tác dụng như hòn đá thử vàng. Mỗi lời nói là một bước tìm đường”.
(Trích tác phẩm “Tuổi Sắt Đá”, dịch giả Anh Thư, NXB Phụ Nữ, 2004)
Cũng trong cuốn “Ngẫu Ích Đại Sư , hành trạng và pháp ngữ” :
Không chịu phá bỏ Ngã chấp, thì nhất định không thể làm bậc mô phạm cho xưa sau. Không chiu phá bỏ Pháp chấp, thì nhất định không thể hoằng dương chánh pháp của đức Phật.
Phá bỏ ngã chấp là tự than hoàn thiện tu tập tự lợi, sẽ xứng đáng là bậc thầy mô phạm chư Phật, Bồ-tát nhân thiên. Phá bỏ Pháp chấp, ở đây có thể jieeur là không thiên chấp môn đình, pháp phái, không kỳ thị, phân biệt lấy bỏ, không xây dựng hàng rào ngăn cách giữa các pháp môn tu tập như Thiền, Tịnh, Luật, Giáo, Mật…
Được như vậy, mới có thể “tùy thuận chúng duyên khai giác đạo”, thiện xảo vận dụng Phật pháp để lợi lạc quần sanh. Đại sư chủ trương:
“Năng hoằng bất như nội thủ”. (năng phát triển bề rộng, chẳng bằng chuyện giữ bên trong).
Thật vậy, Trung Dung có câu: “Ngô chi tâm chánh,tắc thiên địa chi tâm diệc chánh”. Luận ngữ cũng nói “Nhất nhật khắc kỷ phục lễ, thiên hạ quy nhân”. Phật đã dạy “Tâm bình thế giới bình”.
Nếu chỉ lo phát triển ở bên ngoài mà không giữ gìn Phật pháp trong Tâm, dần dần thì cái tâm nguyện ban đầu (sơ tâm) sẽ bị mai một, bị tha hóa lúc nào không biết.
Vì thế, về công hạnh hoằng hóa, Ngài Ngẫu Ích dạy tiếp: “Pháp môn không phải bị suy tàn bởi vì không có ngoại hộ - mà đích thật bị suy tàn bởi vì không có nội thủ (gìn giữ bên trong).
Hãy tùy thời tùy lực mà hưng long huyễn sự, tất cả công hạnh ấy đều nhiếp thuộc vào hành môn của Bồ tát Phổ Hiền. Nếu còn chút tâm danh lợi thế hian, thì Phật pháp cũng sẽ trở thành thế pháp.
(Ngẫu Ích Đại Sư, hành trạng và pháp ngữ)
Cuối cùng, chúng ta chỉ tâm niệm rằng:
Nếu còn chút tâm danh lợi thế gian, thì Phật pháp cũng sẽ trở thành thế pháp.
Và tư tưởng chủ đạo của Tập đoàn Làng Mai là chánh pháp hay là “pháp thế gian”?
Cái chủ nghĩa mà Nhất Hạnh tuyên dương rầm rộ bên Âu Mỹ kia, thực chất là chánh pháp hay tà pháp?
Xin nhường câu trả lời cho quý vị thiện tri thức!

***

Chương thứ tám

DANH TĂNG VÀ CAO TĂNG

Trong buổi lễ tốt nghiệp tại một học viện nọ, một bậc tôn túc tiền bối được thỉnh lên diễn đàn để ban bố Đạo Từ, toàn thể hội chứng đều cung kính lắng nghe, còn tất cả các tăng sinh đều đều cúi đầu chắp tay thành khẩn đón nhận lời giáo huấn tối hậu của vị thượng thủ đầy đầy uy đức của giáo hội. Ngài nói:
- Tôi mong rằng, tất cả tăng sinh tốt nghiệp hôm nay sẽ nỗ lực tu hành nghiêm chỉnh và học tập chuyên cần không mệt mỏi, sớm thành tựu sở học và sở tu của mình - để mai kia trở thành những bậc danh tăng, ngõ hầu giúp ích cho đạo pháp và dân tộc … , …
Danh Tăng? Tại sao lại là Danh Tăng? Chúng tôi có nghe nhầm không?
Thành thật mà nói, chúng tôi cũng không hiểu tại sao một bậc thượng thủ, đạo cao đức trọng nư ngài mà lại không phân biệt nổi đâu là Danh Tăng và đâu là Cao Tăng.
Theo chỗ học kém cỏi và hẹp nhỏ của chúng tôi thì Danh Tăng và Cao Tăng khác nhau rất xa!
Mà danh tăng là gì? Danh Tăng khác với Cao Tăng ở chỗ nào? Ai có đủ đạo hạnh và trình độ tâm linh để có thể định nghĩa hai từ ngữ này? Bọn hậu học chúng tôi chỉ biết đốt nhang triệu thỉnh Ngài Thiền sư Đạo Tuyên, một bậc tu chứng của thời nhà Tống, tác giả bộ sách Cao Tăng Truyện, một bộ sách nổi tiếng trong giới Thiền môn, để khẩn cầu Ngài khai thị.
Trong bài tựa bộ sách Cao Tăng Truyện, ngài thiền sư Đạo Tuyên đã trình bày lý do tại sao mình gạch tên tất cả nững vị danh tăng, mà chỉ ghi lại sự tích của các bậc Cao Tăng như sau:
Tự tiền đại sở soạn đa viết danh tăng. Nhiên danh giả bổn thực chi tân dã, nhược thực hành tiềm quang tắc cao nhi bất danh. Quả đức thích thời, tắc danh như bất cao, bổn phi sở kỷ, cao nhi bất danh tắc bị kim lục.
Tạm dịch: Trước đây các bộ truyện đều viết là Truyện Về Các Danh Tăng. Nhưng Danh vốn là khách của Thực. Bọn thầy tu ít chữ mà tường a dua theo thời thế thì nổi danh lừng lẫy mà đức không cao. Những vị có danh mà đức không cao thì không phải là điều tôi muốn ghi lại, còn các vị cao đức mà không có tiếng tăm thì tôi đều chép ra đây cả!
Như vậy, hai chữ Danh Tăng và Cao Tăng đều có ý nghĩa cách xa nhau một trời một vực!
Theo định nghĩa của ngài Đạo Tuyên, thì chúng ta có thể hiểu rằng:
Danh Tăng là chỉ cho những vị Tăng sỹ nhà Phật tuy mặc áo ăn cơm Tam bảo nhưng đua đòi theo thời thế để kiếm các hư danh và lợi dưỡng. Ví dụ: Thuận theo thế tục mà xây dựng những công trình và sự nghiệp thế gian, bằng những con đường khômg liên hệ tới Phật pháp như chánh trị, từ thiện, xã hội, thương mại, hoặc kinh doanh tôn giáo hoặc lộng bút khoa ngôn trên trường văn chương thi phú, thực hiện mông bá chủ văn đàn, hoặc a dua theo giới quan nha để ra uy với kẻ này, áp chế kẻ kia, cốt thỏa mãn tham vọng cá nhân hơn là tuyên dương đạo pháp, hoặc lập bè kết nhóm để chia chác địa vị và giành giật chức sắc trong đoàn thể Tăng-già v.v…
Cao Tăng là từ ngữ chỉ cho những vị tu sỹ lập chí nguyện rộng lớn, mong mỏi xả thân cho lý tưởng Bồ tát đạo, quyết chí chứng ngộ và đem năng lực Bi Trí để làm lợi ích cho chúng sanh không phân biệt.
Nói Lương Hoàng Sám thì:
Cao Tăng nghĩa là những bậc xuất gia “Vì cầu đạo Bồ - đề mà quyết xả bỏ tất cả những thứ trong thân và ngoài thân, làm lợi ích cho tất cả hữu tình mà chẳng biết mỏi nhọc nhàm chán, bao giờ chúng sanh, mà chưa thành tựu quả vị Phật-đà thì mình không chấp nhận địa vị Chánh Giác”.
Như vậy, những bậc Cao Tăng mới thực sự là mô phạm muôn đời, là ngọn đèn thắp sáng con đường giải thoát và thành Phật, vừa là niềm khát khao khẩn thiết của chúng sanh trong bất cứ thời đại nào, xứ sở nào, quốc độ nào.
Còn Danh Tăng thì thời đại nào cũng có, và trên sân khấu cuộc đời không bao giờ thiếu những Danh Tăng. Họ là những con người tuy bề ngoài khoác y Như Lai, nhưng lại làm vô số công việc không liên quan tới việc giải thoát và cứu độ chúng sanh cả - mặc dù xét trên hình thức, thì quần chúng luôn lầm tưởng họ là những nhân vật đang nắm vận mệnh đạo pháp và hướng dẫn mọi người đi tới mục tiêu thoát khổ, cắt đứt sanh tử, cứu cánh niết bàn!
Riêng chúng tôi nghĩ rằng, Nhất Hạnh đã làm tất cả những gì mình có thể làm kể cả việc hạ thấp bản chất tâm linh của đạo Phật, với một ý đồ mà ai cũng biết, đó là muốn trở thành một vị tăng nổi tiếng, Tức là Danh Tăng của tất cả mọi thời đại. Mặc dù trong một tác phẩm đầu tay của mình, Nhất Hạnh đã viết:
“Gặp được minh sư là rất có thiện duyên, và là một trường hợp ít có” … Thường thường các vị hữu danh rất có thể là vô thực, mà các vị chân tu thì lại hay vô danh”. (Đạo Phật hiện đại hóa, trang 58)
Dường như đây là chánh kiến của một tỳ - kheo Nhất Hạnh khi còn trai trẻ, cái thuở chưa bị tha hóa bởi đàn bà và chưa bị cuốn trôi theo bả hư danh. Nhưng về sau, Nhất Hạnh càng bị lún sâu vào tham vọng trở thành Danh Tăng của chính mình và Nhất Hạnh đã bất chấp tất cả, sẵn sàng thực hiện bất cứ việc gì để được nổi tiếng là thiền sư, sư ông, giáo chủ kèm theo cái “thương hiệu Hiện pháp lạc trú” của mình … Còn thực chất?
Ai cũng biết rằng, việc cố tình lạm dụng chữ Thiền, bóp méo giáo lý nhà Phật, bày ra những phương thức quái dị như Thiền Ôm chẳng hạn,…: chính là một thủ pháp đặc biệt của Nhất Hạnh cốt để nổi danh trong giới học Phật, cũng như ghi tên tuổi của mình vào sử sách mong sao lòe bịp bọn hậu sinh và những người ít học. Đây là công việc “tồi tệ” mà các bậc thánh chân chánh không bao giờ chịu nhúng tay vào.
Dưới cái nhìn chánh kiến của người học Phật thì đức Khổng Tử vẫn chỉ là một vị thánh thế gian, chứ không phải là bậc thánh xuất thế, nhưng chính đức Không Tử cũng thú nhận là không bao giờ thực hiện những công việc mang tính cách kỳ quái đặc dị để dương danh ngay đương thời và lừa bịp hậu thế. Chúng ta hãy nghe đức Khổng Tử nói trong chương thứ 11 của tác phẩm Trung Dung, một trong bộ tứ thư của giáo lý Khổng Mạnh:
Tử viết: Sách ẩn hành quái, hậu thế hữu thuật yên, nhô phất vi chi hỷ!
Bản dịch của nhà sử học Phan Khoang:
- “Đức Thánh nói: tìm tòi những lẽ bí ẩn, làm những việc quái lạ để cho đời sau thuật lại, ta không làm như thế!
Nếu Nhất Hạnh một lòng một dạ vì sự nghiệp cứu độ và giải thoát khổ đau cho tất cả chúng sanh, thì chắc hẳn ông ta không sử dụng thủ pháp kỳ quặc lập dị, và không chơi cái trò ma mãnh “loạn danh loạn thực” nhằm thu hút tín đồ và cậy đám đông để tạo ra quyền thế về chính trị cho mình dưới lốt một nhà tu, nhà lập thuyết, nhà khai đạo!
Đằng này, Nhất Hạnh đã huyên náo phô trương những công việc quái lạ, kỳ đặc với ý đồ thầm kín là thỏa mãn cái Ngã Chấp của mình chứ không vì sự an lạc thực sự của tha nhân. Trên phương diện này, thì chúng ta thấy Nhất Hạnh đã hành động chẳng khác chi là bà Thanh Hải cả! Nhưng nguy hiểm hơn bà Thanh Hải bởi vì Nhất Hạnh ngang nhiên khoác y nhà Phật và sản phẩm của Nhất Hạnh luôn luôn mang nhãn hiệu Phật giáo nên dễ khiến cho vô số chúng sanh bị phỉnh gạt gấp nghìn triệu lần!
Từ đó, chúng ta không mấy khó khăn để nhận định được đâu là Danh Tăng và đâu là Cao Tăng.
Theo giáo lý Phật giáo mà chúng ta đã học được từ kinh điển thì: một người gọi là Cao tăng thì buộc phải có những đức tính sau:
- Luôn luôn xuất xử bằng hành vi tôn trọng Giới Luật, biểu hiện tâm thái Vô ngã trong cuộc sống, từ lời nói đến cử chỉ, công việc. Khiêm cung, khoan hòa, đôn hậu. Không khoe khoang, không lớn lối, không bày tỏ “ý niệm ngã chấp” đến độ ấu trĩ, thô tháo, nhất là không bao giờ bày tỏ ra thỏa mãn với những cái “thành tựu bọt bèo” của mình!
- Thể hiện trí tuệ thực sự bằng thái độ “trung đạo”, vô chấp, không bao giờ tỏ ra có thiên kiến đối với các pháp của đức Phật chỉ dạy.
- Khi thuyết giảng, luôn luôn lấy sự giải thoát khổ đau của chúng sanh làm cứu cánh, hễ nói ra lời nào đều phù hợp với yếu chỉ của đức Phật. Luôn luôn đặt nặng mục tiêu hoằng dương chánh pháp trong khi giúp đỡ tha nhân sớm thoát ly sanh tử luân hồi, đắc an lạc, chứng quả vô sanh - chứ không bao giờ nói và viết tràng giang đại hải cốt đẻ thỏa mãn bản thân với ý đồ thầm kín, bất chánh, lừa gạt chúng sanh!
Với quan điểm Phật pháp, rõ ràng chúng ta thấy “hiện pháp lạc trú” đúng là một “trò lừa phỉnh” của Nhất Hạnh mà mấy ai chỉ mặt vạch tên được?
HIỆN PHÁP LẠC TRÚ là gì?
Theo Từ điển Phật học Huệ Quang, Tập 3, chữ Đ, E, GI. Trang 2424, nguyên văn như sau:
Hiện pháp lạc trú: (Phạn; Drsta-dharma-sukha-vihara). Tu tập thiền định lìa tất cả vọng tưởng, thân tâm vắng lặng, hiện được pháp hỷ và an trụ chẳng động; tức là ở hiện đời do tu tập các tịnh định, vô lậu định… mà hưởng thọ pháp lạc của định. Hiện pháp lạc trú chỉ có ở 4 định căn bản của cõi Sắc (sắc giới).
Như vậy, hiện pháp lạc trú chỉ là giáo pháp tạm thời, bởi vì nếu tu tập nghiêm chỉnh thì cũng chỉ đưa hành giả tới cõi Sắc (Sắc giới).
Mà sắc giới là gì?
Theo Từ điển Phật học Huệ Quang, Tập 7, chữ QU, S-T, trang 5984:
Sắc giới: Chúng sanh ở cõi này tuy không còn dâm dục, không dính mắc vào sắc pháp nhưng còn bị ràng buộc bởi các sắc pháp thanh tịnh vị tế, nên ở giữa cõi Dục và cõi Vô Sắc. Chư thiên ở cõi này không phân biệt nam nữ, áo quần tự nhiên hiện ra, lấy ánh sang làm thức ăn và ngôn ngữ.
Ở cõi này y cứ nhập vào định sâu cạn mà chia ra làm 4 địa (Tức Tứ thiền thiên, tứ tịnh lự xứ; sơ thiền gọi là Ly sanh hỷ lạc địa, Nhị thiền gọi là Định sanh hỷ lạc địa, Tam thiền gọi là Ly hỷ diệu lạc địa, Tứ thiền gọi là Xả niệm thanh tịnh địa).
Về chỗ ở, thân lượng, thọ lượng của chúng sanh ở Tứ thiền thiên thuộc Cõi Sắc, kinh Trường A-hàm 20, kinh Đại Phật Đảnh Thủ lăng nghiêm 9, Luận Lập thế A-tỳ-đàm 3, Luận Đại-tỳ-bà-sa 134-136, Luận Câu-xá 11, Luận Thuận Chánh Lý 31, … đều có trình bày rõ ràng.
Như vậy, hiện pháp lạc trú chỉ là pháp nhỏ, dành cho những người ham thích hưởng thụ những an lạc ở cõi Sắc, chưa phải rốt ráo chứng ngộ và giải thoát hoàn toàn. Nếu tu hành đúng đắn theo hiện pháp lạc trú thì cuối cùng cũng đưa tới cảnh giới “vui chơi” của cõi Sắc mà thôi, chứ không thể đạt đến cứu cánh niết bàn như mục tiêu đức Phật đã đề ra ngay từ buổi bước khởi Bồ - đề đạo tràng.
Trên đây là những ghi chú về biện pháp lạc trú chân chánh theo kinh điển để lại.
Còn hiện pháp lạc trú mà Nhất Hạnh đang rao giảng thì khác hẳn. Cách biệt nhau một trời một vực!
Vốn là tay phù thủy văn chương, nắm vững ma thuật chữ nghĩa, Nhất Hạnh đã sử dụng ngôn ngữ nhà Phật để chế biến ra một pháp hành “tươi mát dễ chịu, an lạc, có hiệu quả tâm lý nhanh chóng” nhằm hấp dẫn những người có căn cơ “tầm tầm”, làng nhàng, lười biếng tư duy mà chẳng chịu học hỏi nơi chư vị thiện trí thức Phật giáo.
Loại Pháp này vốn đã được pha chế với các loại hình tư tưởng Tây phương, tâm lý học thế kỷ 19, 20 rồi trộn lẫn với sách vở của triết gia Krishnamurti, với giáo lý truyền thống Nikaya, cuối cùng được Nhất hạnh ngụy trang bằng cách dán lên nhãn hiệu “Hiện pháp lạc trú xuất phát từ Phật giáo nguyên thủy” để thực hiện tham vọng của mình, trước tiên là được nổi tiếng là một Danh tăng, Thiền sư tự phong thế kỷ 20!
Tu theo hiện pháp lạc trú chân chánh, thì được sanh lên cõi sắc. Còn tu theo hiện pháp lạc trú của Nhất Hạnh thì sẽ sanh lên cõi nào ?
Xin nhường câu trả lời cho quý vị !
Các nhà trí thức Phật giáo Huế đều thừa nhận rằng : hiện pháp lạc trú của Nhất Hạnh thực chất chỉ là thứ thuốc an thần tạm thời, hoặc sản phẩm “chống stress” mà thôi, chứ không có giá trị tâm linh đích thật.
Nhưng nếu bảo rằng, pháp này mà có khả năng dẫn dắt những người Tây phương đến một trạng thái tâm lý yên ổn, thoải mái, hứng thú trong cuộc sống hàng ngày, xoa dịu những chấn thương do tiện nghi vật chất gây nên, thì chúng tôi đồng ý. Nhưng nếu gọi nó là giáo pháp chân chánh, giải thoát rốt ráo của nhà Phật, (đã về, đã tới) thì chúng tôi xin thưa: Cần phải xét lại cái đã! Bởi vì “đồ dzổm’ và “đồ thiệt” thì không bao giờ có thể chung sống hòa bình với nhau được!
Đức bổ sư Thích Ca thị hiện nơi thế gian này chỉ cốt để tuyên dương Đạo lý Thích Như Thật, và truyền ban cho chúng ta những giáo lý thượng thừa, uyên áo. Và lâu nay chúng ta đã quen thói sử dụng “đồ thiệt” rồi, không lẽ vì lý do gì mà chúng ta lại ngu dại quay lui với “đồ dzổm” do Nhất Hạnh pha chế bằng những phương pháp giả tạo? Một người đã ăn vận đồ lụa là vải vóc làm bằng sợi tơ Trời Đâu-la-miên, chẳng lẽ bằng lòng mặc áo binh áo giấy do Nhất Hạnh sản xuất?
Ai muốn bán rẻ Tâm linh của mình cho ma quỷ, thì… cứ việc!
Ai muốn thả trôi Pháp thân Tuệ mạng của mình theo “dòng sông tươi mát đầy rác rưởi tà kiến” của Nhất Hạnh, thì … tùy ý! Nam mô A Di Đà Phật!

***

Chương thứ chín

HỘI CHỨNG GIÁO CHỦ

Từ ngữ Giáo Chủ theo Huệ Quang Đại Từ Điển do Đại sư Thích Minh Cảnh chủ biên, Tập 3, trang 2643 thì Giáo Chủ nghĩa là: Vị sáng lập một tôn giáo nào đó, hoặc người chủ trì giáo đoàn, hoặc cũng có thể chỉ cho vị Chủ tôn tuyên nói kinh giáo.
Theo ý nghĩa ấy thì chúng ta có thể hiểu :
Ví dụ: Đức Jesus Christ là giáo chủ của đạo Thiên Chúa. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là giáo chủ của đạo Phật. Đây là nói về người khai sáng một tôn giáo.
Hoặc: Đại giáo chủ A lếch xây của Chính Thống giáo chẳng hạn, đây là nói về người chủ trì một giáo đoàn.
Hoặc: Giáo chủ kinh Hoa Nghiêm là đức Phật Lô-Xá-Na, đây là nói về đấng chủ trì một bộ kinh, một giáo thuyết, làm cở sở cho chúng sanh y chỉ mà tu hành.
Nhưng từ ngữ “Giáo Chủ” mà chúng tôi thường xuyên nhắc tới trong cuốn sách này thì có ý nghĩa hạn hẹp như sau: Giáo chủ nghĩa là người khai sáng hoặc đứng đầu một môn phái, hoặc truyền bá, hoằng dương một lý thuyết tôn giáo nào đó. Dĩ nhiên có thể hiểu thêm rằng “Giáo Chủ là người đưa ra một học thuyết cá biệt, hoặc vay mượn từ các nguồn tư tưởng khác, rồi viết sách vở kinh điển luận giải, tụ tập môn đồ, tự dựng thành một môn phái riêng, có thể tạo ra một thứ quyền lực xã hội, kinh tế hoặc chính trị nào đó, gây ảnh hưởng lớn nhỏ trong một số quần chúng, trong một số địa phương, quốc gia…”.
Nay là thời “pháp nhược ma cường” (nghĩa là ảnh hưởng của chánh đạo thì yếu ớt, mà ảnh hưởng của ma lực thì rất mạnh), cho nên chúng ta thấy thế giới này hiện đang xuất hiện nhiều vị giáo chủ. Đối với những người không chịu nghiên cứu cẩn thận và nghiêm túc thì sẽ không có cái nhìn đúng đắn, “Thật giả bất phân” và dẫn tới những kết quả tai hại.
Vì lý do như thế, mà ngoài những căn bệnh chết người, gây nguy hiểm cho xã hội như hội chứng AIDS, hội chứng EBOLA, hội chứng xuất huyết não, hội chứng nhiễm trùng máu, . . v.v…thì chúng ta thấy hội chứng Giáo chủ cũng đã gây nhiễu loạn và mang lại những nguy cơ vô cùng lớn lao không thể lường trước được cho xã hội con người.
Chúng tôi nói quá chăng? Không!
Dường như ngày xưa, Lão Tử đã nhận xét:
- Làm thầy thuốc lầm thì giết chết một người. Làm địa lý lầm thì giết chết cả họ. Làm chính trị lầm thì gây hại cho một quốc gia, dân tộc. Làm văn hóa lầm thì giết hại cả muôn đời.
Còn nếu “làm tôn giáo mà lầm” thì giết chết bao nhiêu muôn ức chúng sinh? Tiêu diệt bao nhiêu quốc gia, dân tộc? Di hại của việc lầm tôn giáo lầm thì có thể nói là vô lượng vô biên, không cùng tận.
Thế mà hiện nay, có một số người mắc phải căn bệnh “ham mê làm giáo chủ”, ham thuyết giảng và lôi kéo, lừa bịp những kẻ nhẹ dạ, kém phước duyên, với mục tiêu làm thỏa mãn cái Ngã Chấp của mình, hoặc thu gom quyền lực tôn giáo, hoặc khao khát hư danh và lợi lộc. Cho nên chúng ta không thể quay lưng với một cái gọi là “Hội Chứng Giáo Chủ”, một căn bệnh đang xuất hiện, bành trướng và phát triển trên thế giới, có nguy cơ gây tổn hại cho niềm tin của nhân loại và phá hủy những giá trị tâm linh đích thực.
Tại Việt Nam gần đây, xuất hiện nhiều giáo chủ có ít nhiều quan điểm liên hệ với đạo Phật như: Thanh Hải, Lương Sỹ Hằng, Chơn Tánh Nguyên Hương,…Tịnh Vương Nhất Tôn, Ông Đạo Hú, đạo sư Chơn Quang, thiền sư Thanh Từ và thiền sư Nhất Hạnh nữa!
Từ năm 1968 cho đến 1984, người viết đã từng trôi dạt khắp các tỉnh phía Nam, trên chặng đường mưu sinh của mình. Và may mắn (hoặc xui xẻo rủi ro) đã được dịp diện kiến, tiếp xúc và sống kề cận một số giáo chủ, do vậy mà có cơ duyên nhận định về con người cũng như bệnh trạng của quý vị giáo chủ ấy. Riêng về Nhất Hạnh thì người viết chỉ đọc tất cả những tác phẩm của ông ta chứ không được dịp gặp mặt, bởi vì một lý do dễ hiểu là dạo ấy, Nhất Hạnh đã xuất ngoại làm chính trị và sinh sống bên trời Âu Mỹ xa xôi. Mãi tới tháng 2/2005 mới có dịp về chiêm ngưỡng “tôn nhan”, và chứng kiến ngài diễm xuất nhiều lần tại vài địa điểm trong thành phố Huế. Còn Thanh Hải thì người viết chỉ tham khảo sách vở kinh điển và xem băng đĩa video, nhưng cũng đủ để nhận định về nhân cách, hành trạng , sự nghiệp, và chủ thuyết của “sư phụ”.
Hôm nay, người viết mạo muội trình bày đôi nét sơ lược về một căn bệnh hiểm nghèo, tạm gọi là “Hội Chứng Giáo Chủ”, qua lắm lần “thực tế tại cơ sở và con người các giáo chủ” cũng như qua một số tư liệu mà mình sưu tầm được.
Chúng tôi cố gắng giữ thái độ khách quan và chân thực khi tường thuật những sự kiện mắt thấy tai nghe về cuộc đời và hành trạng của họ, như thể đây là một bài phóng sự ngắn, hoàn toàn xác thực và không chút hư cấu, làm văn chương hay tưởng tượng. Đương nhiên là người viết vẫn phải duy trì quan điểm chánh kiến của đạo Phật khi nhận định về những sự kiện sau. Trong trường hợp quý vị nào ngẫu nhiên nhận ra hình ảnh của mình trong bài phóng sự này thì đó là ngoài ý muốn của người viết.
Nói chung, “hội chứng giáo chủ” là hội chứng của Ngã Chấp cho nên:

I. CÁI NGÃ CÁC NGÀI RẤT TO LỚN

Dường như tất cả các vị giáo chủ đều có cái “Tôi” rất lớn, nghĩa là “Ý niệm Chấp Ngã” vô cùng vĩ đại. Luôn luôn tự cao tự đại một cách rất thô thiển và ấu trĩ. Họ chỉ cho bản thân mình là quan trọng nhất, là đáng tôn thờ nhất, nhân cách của mình là siêu tuyệt nhất, tài năng và công phu tu tập của mình thì không ai sánh kịp. Trí tuệ đệ nhất. Sáng suốt bậc nhất.
Chỉ có họ mới có thể cứu vớt mọi người ra khỏi khổ đau và u mê mà thôi. Những kẻ kém may mắn mới không được gặp gỡ giáo chủ và lắng nghe lời dạy của giáo chủ!
Ngoài Đức Phật ra thì chẳng có ai bằng giáo chủ cả!
Riêng sư phụ Thanh Hải thì lại quá quắt hơn, bà ta tuyên bố trong băng cát - xét: Các vị Phật như Thích Ca, Di Lặc, A Di Đà đều là bạn thân của sư phụ cả!
Đây là loại bệnh tâm thần nặng nhất, dường như trên thế giới không có thứ thuốc nào chạy chữa được, bởi vì căn bệnh này vốn có gốc rễ cực kỳ sâu xa: Bệnh Cái Tôi.
Triết gia Rajneesh Osho nói:
Cái “tôi đây” thực sự chỉ có thể được nói tới khi cái tôi bị xóa bỏ. Chúng ta quen với một cái tôi, và cái tôi mà chúng ta biết này thì chẳng là gì ngoài tổng số của tất cả ảo tưởng của chúng ta. Chúng ta tạo ra cái tôi này, chúng ta nuôi dưỡng, chăm nom, làm giàu mạnh thêm cho nó trở nên cường liệt hơn. Nhưng bởi vì nó là giả và là sự bịa đặt riêng của chúng ta, rốt cuộc chúng ta chuốc lấy nhiều rắc rối vì nó, chúng ta trở nên lo nghĩ, phiền não bởi vì cái không phải là bản chất của chúng ta thì bao giờ cũng trở thành gánh nặng cho tâm thức.
(“Con đường bên ngoài mọi con đường”, Ngô Trung Việt dịch)
Nhiều vị giáo chủ còn kheo khoang “thần thông đạo lực” của mình một cách rất thô tháo, khôi hài. Chẳng hạn như: Có vị cho mình có khả năng biết được tất cả mọi việc quá khứ vị lai trên thế giới, cũng như thấy rõ tâm niệm và cuộc đời của những người đối diện và tuyên bố có thể nói vanh vách từng chi tiết một. Chó ngáp nhằm ruồi, chúng tôi thấy đôi khi cũng chính xác, nhưng phần lớn là… sai bét.
Nhưng không sao, những người tín đồ và các đệ tử thì vẫn nghe theo răm rắp. Nếu tiên đoán sai lầm thì Giáo chủ luôn luôn tìm cách giải thích bằng đủ loại thủ pháp rất chợ trời, hoặc ngụy biện sao cho tín đồ nghe lọt lỗ tai.
Ví dụ:
Có ngài Chơn Tánh Nguyên Hương ở Đà Nẵng sau năm 1975 bị công an bắt giữ và tống giam nhiều lần vào trại cải tạo, bởi vì lý do “rao rảng tà đạo, truyền bá, sinh hoạt tôn giáo bất hợp pháp và gây rối trị an”.
Sau khi mãn hạn, ra khỏi nhà tù, ngài mừng rỡ vô cùng, viết giấy cam đoan sẽ không bao giờ tái phạm nữa.
Khi trở về nhà, ngồi chễm trệ trên tòa sen làm bằng xi măng, (còn hơi run run…) ngài phán:
- Ta phát nguyện vào tù để giáo hóa những chúng sinh tội lỗi. Bởi vì Ta không vào địa ngục thì ai vào?
Lúc khác Ngài lại dạy:
- Ai mà bắt ta nổi? Đây là do ý chỉ của Ơn Trên mà Ta phải vào trại cải tạo để giáo hóa bọn tội phạm trở thành những người tù chân chính!
Ngài muốn nói sao thì nói, tất cả đệ tử đều lắng nghe và hoàn toàn cung kính tin theo, không chút nghi ngờ! Mà nếu nghi ngờ thì không phải đệ tử của Ngài nữa!
Còn Nhất Hạnh thì sao?
Nhất Hạnh luôn luôn tỏ ra ghét bỏ những ai phản đối ý kiến của mình. Mặc dù ông ta đề cao tinh thần “dân chủ bình đẳng” trong cái gọi là Tăng Thân Làng Mai, nhưng hễ Nhất Hạnh phán gì thì chư vị đệ tử đều buộc phải tuân theo răm rắp. Lời của Ngài luôn luôn là khuân vàng thước ngọc. Hành động của Ngài luôn luôn đúng đắn và lời dạy của Ngài luôn luôn chính xác.
Hễ đệ tử nào “thành thật bày tỏ quan điểm cá nhân” thì Ngài dằn từng tiếng:
- Tất cả những bọn trí thức cao cấp bên Tây bên Mỹ mà còn nghe theo ta, huống chi mấy ông là cái gì mà bày đặt phản đối thế này thế kia?
Đây là thái độ “mục hạ vô nhân” mà chúng ta thường thấy nơi các giáo chủ. Chỉ với thái độ này mà chúng ta có thể đánh giá trình độ tu chứng của họ, nhưng không sao, chư vị đệ tử của quý ngài thì vẫn luôn tôn thờ và một mực sùng bái quý ngài đến nỗi có thể xả cả thân mạng để bảo vệ “bậc lãnh đạo tinh thần” của mình.
Từ “Ý Niệm Ngã Chấp” vô cùng to lớn đã kéo theo hệ quả tất yếu là:

II. CHỈ CÓ GIÁO PHÁP CỦA MÌNH LÀ CAO SIÊU NHẤT.

Các giáo chủ luôn luôn cho rằng giáo pháp của mình cũng là chân chánh nhất, đúng đắn nhất, chính xác nhất, cao siêu nhất, thích hợp thời đại nhất… Còn ngoài ra tất cả giáo pháp của các môn phái khác đều là sai lầm, tà đạo, thiếu sót và không bao giờ mang lại kết quả thực sự !
Tịnh Vương Nhất Tôn, một giáo chủ gốc Quảng Ngãi có đôi mắt “lưỡng mục bất đồng”, nghĩa là “chột mắt”, khuôn mặt tối tăm và nhân cách như kẻ đá cá, lăn dưa ngoài chợ, nhưng đã gây ảnh hưởng đáng kể một vùng Nam Ngãi Bình Phú một thời trước 1975.
Tịnh Vương Nhất Tôn lúc nào cũng đích thân đọc những ý tưởng tầm phào của mình cho đệ tử chép lại thành kinh điển, và ngài chỉ thuần rao rảng bằng kinh điển của mình mà thôi. (Cúng bắt đầu bằng Lục chứng tín tự và kết thúc bằng Tín thọ phụng hành, vân vân…).
Thanh Từ thì mỗi lần ra khỏi tịnh thất, cũng tụ tập đồ chúng lại, và truyền ban giáo pháp mới sáng tác của mình rồi sau đó sai khiến chư đệ tử chép lại thành tác phẩm “ Phụng Hoàng Ngữ Lục” để truyền lại cho tín đồ và kế thừa cho muôn đời sau. Những ai kém phước thiếu duyên thì sẽ tranh nhau chộp lấy và hí hửng thực hành theo, nếu tuệ mạng của mình xảy ra bề gì thì rang âm thầm chịu trận, chớ nên trách móc ai!
Xin thưa rằng hiện nay Phụng Hoàng Ngữ Lục đã xuất bản tới cuốn thứ 5 rồi. Mua mau kẻo hết.
Thanh Hải thì “có năng khiếu kinh doanh tôn giáo” hơn, luôn luôn bắt buộc đệ tử phải mua sách kinh và băng đĩa của mình với giá cắt cổ - bởi vì ai cũng không được sao chép kinh điển của sư phụ được, mà phải mua tại cơ sở truyền giáo của sư phụ. Tại sao như thế? Trong các sách vở minh điển của sư phụ bày bán thì đã được sức mạnh tâm linh của sư phụ gai trì. Còn nếu sao chép lại thì kinh sách ấy không còn giá trị,…bởi vì không còn sự gia trì quý báu của sư phụ và đương sự có thể chuốc lấy những quả báo chẳng lành!
Thật là một chiêu khuyến mãi vô cùng trân tráo, vô đạo đức – thế mà vô số đệ tử của bà ta vẫn tin theo. Quả là… hết thuốc chữa!
Nhất Hạnh cũng thế, ông ta luôn luôn cho rằng cái “Hiện pháp lạc trú” của mình là “ đã về, đã tới”, là giáo lý hoàn chỉnh cho bất kỳ hành giả nào. Chỉ cần hành trì theo pháp ấy là đủ.
Ngoài ra Nhất Hạnh còn biên soạn lại kinh điển và giải thích theo tư ý của mình thành một bộ “Thiền môn Nhật tụng năm 2000”, sau này chỉnh sửa lại thành bộ “Thiền môn Nhật tụng Đại toàn”.
Nhất Hạnh và cả Thanh Từ nữa, đều tuyên bố xóa sổ Hai Thời Công Phu của truyền thống Đại thừa, như là hai kẻ nội công ngoại kích đồng loạt đánh phá, nhắm vào giá trị tâm linh của Phật giáo truyền thống.
Thiền môn Nhật tụng là kinh điển chủ yếu của Phật giáo hiện đại hóa do Nhất Hạnh bào chế từ kinh Pali (tiểu thừa), mà Nhất Hạnh đánh giá là “gần gũi với lời dạy nguyên thủy của đức Phật nhất”. Họa hoằn, Nhất Hạnh cũng chen vào đó đôi ba bài kinh thuộc hệ Đại thừa, nhưng vẫn được nhìn nhận dưới cái nhìn Tiểu thừa.
Nhất Hạnh không biết rằng một hành giả Tây phương như Alan Watts từng lặn lội trong dòng kinh điển Phật giáo đủ mọi trường phái, đã phát biểu.
“Những lời dạy trong kinh bản Pali phần lớn là những quy điều đạo đức, do đó Tiểu thừa đã trở thành một trường phái cứng nhắc, chuộng hình thức, hầu như duy vật. Từ ngày phát khởi cho tới nay, triết lý Tiểu thừa không thay đổi và không có một phát triển quan trọng nào. Kinh điển đại thừa trái lại, phần lớn gồm những lời dạy thuộc phạm vi siêu hình và không ngừng được khai triển, giải thích theo nhiều chiều hướng khác nhau”.
(Trích The Way of Zen, tác giả Alan Watts
Ni sư Thích Nữ Trí Hải dịch : “Thiền Đạo” trang 10)
Vì ngã chấp quá sâu dày, Nhất Hạnh đã cố tình đi ngược lại truyền thống tâm linh đạo học Đông Đô và dòng chảy của lịch sử Phật giáo! Nhất Hạnh đã pha trộn những tư tưởng duy vật của khoa học hiện đại với những tư tưởng duy vật của Phật giáo tiểu thừa, rồi cuối cùng thể hiện bằng cá tính “ ái nam ái nữ” của mình để trở thành “CHỦ NGHĨA NHẤT HẠNH”!
Nhưng để làm gì?
Hay là chỉ quyến rũ được một số đệ tử Tây phương vốn có trình độ văn minh vật chất thừa mứa, tiện nghi, nhưng căn cơ tâm linh thì dường như vẫn còn trong tình trạng man dã ? Chân lý nhà Phật đâu cần được bảo chứng bởi bọn mắt xanh mũi lõ và bọn trí thức Tây học?
Vả lại, chúng ta phải xác nhận rằng giáo lý Tiểu thừa mà đại diện là Trường phái NIKAYA, dẫu sao cũng đã làm trọn vẹn vai trò lịch sử (của nó) và chúng ta nên đặt nó vào vị trí kiêm tốn của nó đằng sau cánh cửa quá khứ.

III. DỐI TRÁ.

Để thực hiện những ý đồ và tham vọng “oai trấn giang hồ” tất cả quý vị giáo chủ buộc phải dối trá.
Đúng như vậy thôi. Không có phương thức nào khác cả! Những cái dối trá của Nhất Hạnh thì đã được trình bày trong các chương khác. Còn thiền sư Thanh Hải?
Bởi vì nôn nóng được dương danh giang hồ, và quá thèm khát trở thành một vị tổ sư của Thiền tông Việt Nam, ngài Thanh Từ đã không ngần ngại phiên dịch qua quýt một số ngữ lục và kinh điển Thiền tông Trung Quốc sang Việt Ngữ.
Vì buộc phải dich vội vàng, cấp tốc nên Thanh Từ phải dịch cẩu thả, qua loa, chỗ nào không thể dịch được thì ông ta bịa đặt, hư cấu thêm vào và đương nhiên ngài đã làm sai lệc ý nghĩa chính thức của văn bản.
Nguy hiểm nhất là bởi vì dịch sai và dịch bậy bạ, ngài Thanh Từ lại nương theo bản dịch trật trệu của mình mà lấy đó làm cơ sở để giảng giải tư tưởng, đạo lý nhà Thiền cho đệ tử nương theo mà …tu tập!
Kinh điển Phật giáo và văn bản nhà Thiền mà ngài xem như tiểu thuyết viễn tưởng không bằng. Muốn dịch thì sao thì dịch, muốn viết thì sao thì viết. Không nghĩ tới trách nhiệm của một nhà hoằng pháp. Ngài vừa dối mình vừa lường gạt mọi người, miễn sao củng cố được cái chức danh Thiền sư Việt Nam, và quên bẵng rằng bản thân đang phạm vào một trong những “Đại Giới” của một vị Tỳ - kheo! Đó là giới Cấm Vọng Ngữ.
Tại sao vậy? Bởi vì Thanh Từ cứ đinh ninh rằng ở đất nước Việt Nam này hiện có mấy ai tìm kiếm được những văn bản và tư liệu Thiền tông Trung Quốc để đối chiếu, so sánh? Cho nên ngài cứ làm càn, làm bừa. Bề gì cũng có cái uy danh và bảng hiệu Thiền sư của mình bảo chứng, lại nữa, đối với ngài thì chúng sanh luôn luôn khờ khạo, ngu dốt, rất dễ phỉnh gạt!
Trước 1975 tại Miền Nam Việt Nam trong giwois văn nghệ học thuật bỗng dưng xuất hiện một cái tên làm khiếp hãi tất cả những ai “chuyên làm đồ dởm để phỉnh gạt thiên hạ”, đó là Mõ Làng Văn.
Với những bài viết vô cùng công phu được đăng tải trên tạp chí Văn, nhân vật Mõ Làng Văn đã vạch mặt chỉ tên không biết bao nhiêu học giả tầm cỡ, nhà văn nổi tiếng, nhà báo uy tín. . v.v…,đã lừa bịp độc giả bằng thủ thuật “ thiếu kém sự liêm khiết của trí năng” – nói nôm na là ăn cắp thành quả tâm huyết và tinh huyết của các tác giả một cách táo tợn. Mà bây giờ chúng ta gọi hành vi này bằng một từ ngữ bóng bẩy, là “vi phạm bản quyền”. (Vi phạm công ước Berne). Về sau, do vì áp lực của chính quyền Ngụy, tòa soạn tạp chí Văn tỏ ra hơi … ớn lạnh, cuối cùng thì Mõ Làng Văn buộc phải im hơi lặng tiếng, tự chấm dứt “ sự nghiệp kiểm tra chất lượng văn học” và “thanh khiết hóa” môi trường văn chương chữ nghĩa của mình!
Có lẽ ngài Thanh Từ nhỡ rằng những người như Mõ Làng Văn thì đã bị “tuyệt tích giang hồ” cả rồi, cho nên ông ta tỏ ra vô cùng dũng cảm khi công bố và phát hành những dich phẩm Thiền của mình. Nhưng ngài Thanh Từ không khỏi khóc thầm khi “ trời đã sinh Thanh Từ mà còn sinh Lý Việt Dũng”!
Bởi vì chính Lý Việt Dũng là nhân vật xóa sổ tất cả công trình dịch thuật của Thanh Từ khi công bố cuốn sách “ Góp ý về những sai lầm trong các bản dịch của Hòa thượng Thanh Từ”.
Lý Việt Dũng nói rằng ông ta chỉ góp ý và sửa sai những chỗ sai lầm trong các bản dịch của Thanh Từ nhưng thật ra ông Lý Việt Dũng vạch ra cho chúng ta thấy rằng tất cả về Thiền của Thanh Từ đều là nhưng bản dịch ẩu đả, sai lầm nghiêm trọng, vô giá trị không thể sử dụng được và qua những dịch phẩm ấy Thanh Từ tỏ ra vô trách nhiệm đối với độc giả cũng như đối với Phật giáo Thiền Tông. Đây là nhân cách và văn cách của một người xuất gia? Hay là trò gian lận mang bản chất phỉnh gạt chúng sanh của những kẻ lừa đảo nơi chợ trời chữ nghĩa?
Nhờ Lý Việt Dũng phanh phui từng chi tiết lớn nhỏ trong các dich phẩm rất rởm của Thanh Từ mà chúng ta mới bật ngửa khi biết được rằng sở học Hán ngữ cũng như trình độ tu chứng của Thiền sư này uyên thâm và cao siêu như thế nào!
Thưa quý vị,
Một người tu hành nổi tiếng đức cao vọng trọng tại sao lại “thiếu sụ liêm khiết của trí năng” nhưu vậy?
Nếu cảm thấy sở học của mình chưa thấu đáo thì có thể nhường việc phiên dịch cho những người khác, mình than là người xuất gia, công việc quan trọng nhất của mình là TU CHỨNG, đâu phải Phiên dịch?nếu có kém cỏi về mặt Hán Cổ thì chẳng có gì xấu hổ cả! Nhưng nếu vi phạm giới luật nhà Phật thì mới đáng xấu hổ và đọa lạc!
Nếu bản thân chưa chứng ngộ mà bày đặt dạy dỗ chúng sinh phương pháp “đốn ngộ” thì Thanh Từ mới thực sự là “tội nhân thiên cổ” đồng thời là trò hề đáng mỉa mai trong giới học Phật và tu Phật!
Qua cuốn “Góp Ý” của Lý Việt Dũng chúng tôi và các đạo hữu thân quen bỗng “bật ngửa” khi nhận ra “cái mặt thật” của sở học và sở tu của Thanh Từ mà ngao ngán cho cái dối trá lẫn huyênh hoang của một người tự phong là Thiền Sư Việt Nam!
Chúng tôi quả không ngoa khi thưa rằng: Dối trá là một đặc chất không thể thiếu để cấu thành “ Hội chứng giáo chủ”.
Dối trá là một đặc chất cơ bản hễ kẻ nào muốn làm giáo chủ thì phải dối trá. Nếu chúng ta không muốn nói thêm rằng, tính chất dối trá chính là nền móng cần thiết nhất để xây dựng sự nghiệp giáo chủ! Bởi vì ngai vàng và hào quang của danh vị giáo chủ thì mang lai vô số quyền lực nhằm mang lại thỏa mãn “Cái Tôi” một cách đày khoái cảm, cho nên nhiều vị giáo chủ biết mình đang dối trá nhưng không thể từ bỏ được!
Còn Chơn Tánh Nguyên Hương đạo sư thì…
Một hôm nọ, một người bạn mang đến cho chúng tôi cuốn sách “Mười tong phái Phật giáo”, tác giả là Chơn Tánh Nguyên Hương đạo sư, mà anh bạn cho là vô cùng mới lạ và thú vị, và không tiếc lời ca ngợi một vị giáo chủ đạo cao đức trọng, mà cũng sáng tác một tác phẩm giá trị về nhiều mặt, học thuật cũng như đường lối tu tập.
Chúng tôi hí hửng lật từng trang sách. Nhưng… đọc qua nội dung, chúng tôi cảm thấy cuốn sách này có vẻ quen quen, như từng mình đã đọc ở đâu đó rồi. anh bạn thiệt thà bảo: “Đây là cuốn sách do đạo sư vừa sáng tác, và mới phát hành không bao lâu!”
Cuối cùng, tôi lục trong tủ sách của mình, nhặt ra cuốn “Các tong phái đạo Phật”, Tuệ Sỹ dịch từ nguyên tác của Junjiro Takakusu: The Essentials of Buddhism Philosopy, do ban tu thư Viện Đại Học Vạn Hạnh xuất bản năm 1973 tại Sài Gòn.
Và chúng tôi đối chiếu hai cuốn sách ấy rất kỹ lưỡng, mới phát hiện ra một sự kiện bi hài: Tác phẩm của Chơn Tánh Nguyên Hương đạo sư là BẢN SAO HOÀN TOÀN cuốn sách nói trên của dịch giả Tuệ Sỹ và ngài chỉ làm một việc duy nhất : đặt tên của mình lên đầu cuốn sách kia và nhận mình là tác giả!
Qua quá trình “Điều tra”, Chúng tôi mới biết rằng, đạo sư Chơn Tánh Nguyên Hương vốn là cựu sinh viên của Đại Học Vạn Hạnh trước 1975!

IV. - HAM THU HÚT ĐỆ TỬ VÀ ƯA THÍCH SÙNG BÁI, TUNG HÔ!

Bất kỳ giáo chủ nào cũng ham hố việc lôi kéo đệ tử ngày càng đông càng nhiều. Và họ luôn luôm tự hào về số đệ tử mà mình có được. Tâm linh và Chân lý lại bị quý giáo chủ đánh giá qua số lượng tín đồ!
Như các chương trước đã nói, Nhất Hạnh luôn khoe khoang số lượng đệ tử mà mình có được: Đệ tử xuất gia gồm 18 quốc tịch, đệ tử tại gia gồm 30 quốc tịch.
Thanh Hải thì thường kiêu hãnh công bố thành quả vĩ đại của mỉnh rằng: Cái đạo của sư phụ đã phát triển trên 50 quốc gia và có hàng trăm cơ sở khắp thế giới!
Nhất Hạnh và Thanh Hải đều giống nhau ở chỗ, cả hai người đều khoe rằng đã thuyết giảng tại Liên Hiệp Quốc cho các nguyên thủ quốc gia, các vị chức sắc cao cấp của nhiều quốc gia… Đức khiêm cung là một điều quá xa vời đối với quý vị giáo chủ. Họ có căn bệnh tương tự như nhau:

1. Phô trương bản thân đã từng cứu vớt vô số con người lầm lạc và đưa những con người ấy trở về với giáo phái cao siêu của mỉnh rồi hướng dẫn họ tu tập thành tựu hạnh phúc, an lạc, cho đến khi đắc quả trong cuộc sống!

2. Giáo chủ nào cũng tự soạn thảo những văn bản để dẫn dắt đệ tử tu tập. Thông thường thì quý vị giáo chủ đều cóp nhặt từ kinh điển công truyền của đức Phật Thích Ca, rồi thêm thắt chút ít và trình bày theo phong cách rất cá tính của mình. Nhất Hạnh thì cải biên kinh điển Phật giáo rồi pha trộn với đủ loại giáo lý ngoại đạo, và diễn dịch theo phong cách tâm lý học Tây Phương bằng thủ pháp văn nghệ văn gừng (Như đã nói ở các phần trước).
Chơn Tánh Nguyên Hương thì không có sáng tạo gì mới mẻ, chỉ cắt xén kinh điển nhà Phật rồi gia công bào chế bát nháo đủ loại tư tưởng Phật giáo, rồi dán nhãn hiệu “Chơn Tánh Nguyên Hương đạo sư”, cuối cùng thành ra giáo lý của mình!
Sư phụ Thanh Hải thì “loạn cào cào” hơn, bà ta cóp nhặt Phật giáo một chút, Thiên Chúa giáo một chút, tư tưởng phương Tây một chút, huyền bí học Ấn Độ một chút, cái ngu mê của mình một chút… rồi pha trộn tùy theo cảm hứng nhất thời của mình – nhưng không sắp xếp theo trình tự nào mà viết và giảng lung tung beng, đụng đâu nói đó, (nhiều khi mâu thuẫn với nhau) thế mà vẫn lôi kéo lắm tín đồ - do vậy mà chúng ta có thể khẳng định rằng, chân lý không bao giờ thuộc về đám đông.
Đám đông quần chúng tuy là một lực lượng đáng nể nhưng về phương diện tâm linh thì: Đám đông không hề nói lên bất cứ điều gì!

3. Thèm khát hư danh và quyền lực tôn giáo:
Thanh Hải thì dạy đệ tử tụng niệm danh hiệu “Nam mô Thanh Hải Vô thượng sư” . Chơn Tánh Nguyên Hương thì dạy đệ tử tụng niệm danh hiệu: “Nam mô Chơn Tánh Nguyên Hương đạo sư” mỗi khi nguy cấp hàng ngày! Tịnh Vương Nhất Tôn cũng y như vậy! Họ ở cách xa nhau cả mấy chân trời tít tắp mù mịt, nhưng tại sao họ lại hành xử giống hệt nhau như thế?
Nhất Hạnh thì dưới sự thao túng của bà Chân Không, nên Ngài cũng biết phát huy quyền lực vô biên của giáo chủ, bằng cách trấn áp các phần tử “cứng đầu”, dưới trướng, ví như vụ đuổi đệ tử đồ tôn ra khỏi chùa Tử Hiếu vào tháng 3/2005 vừa rồi.

4. Luôn luôn bị môn đồ dẫn dắt và sai sử:
Trong những bước ban đầu thì vị giáo chủ thường bày tỏ uy quyền lãnh tụ của mình như: Ban bố hiệu lệnh, dạy dỗ và chăn dắt tất cả đệ tử môn đồ… Nhưng sau một thời gian, tất cả các vị giáo chủ dần dần bị tha hóa và thực hiện tất cả những ý đồ của bọn thủ hạ dưới trướng. Điều này dường như là “vết xe đổ” của các nhà lãnh đạo mà chúng ta thường thấy trong lịch sử nhân loại. Nhà lãnh đạo nào rồi ra cũng phải bị lãnh đạo bởi quần chúng hoặc bị sai sử bởi thủ hạ, quần thần, môn đồ, đệ tử…
Raihneeesh Osho nói:
Người lãnh đạo luôn luôn bị mất hút trong chính tiến trình trở thành người lãnh đạo, bởi vì người ấy phải nhân nhượng những người mình điều khiển và không để ý tới điều đó, dần dần trong sự nhân nhượng này, người ấy trở nên bị lãnh đạo và biến thành kẻ nô lệ hồi nào chẳng hay!
(Trích cuốn “Con đường bên ngoài” mọi con đường Việt dịch
của giáo sư Ngô Trung Việt, trang 345”).
Trước đây, Cao Ngọc Phượng là đệ tử đắc ý của Sư Ông, nhưng qua một thời gian, nàng trở thành người phụ tá rồi làm người đại diện rồi cuối cùng nàng chính là nhân vật có uy quyền đối với Nhất Hạnh và trong phía sau bóng tối âm thầm, nàng bỗng dưng trở thành người lãnh đạo lại Sư Ông, có thể sai sử lại Nhất Hạnh trong tất cả mọi vấn đề như lập chương trình diễn xuất, vạch ra kịch bản thuyết pháp, và soạn thảo kế hoạch và bài bản cho Nhất Hạnh thực hiện!

Tóm lại, hội chứng giáo chủ là một căn bệnh gây nhiều nguy hiểm cho xã hội nhất và di căn lâu dài, nhưng không thể mổ xẻ chỉ trong vài ba cuốn sách. Chúng tôi xin bỏ ngỏ nơi đây và dành phần tìm hiểu rốt ráo cho quý vị.
Người viết xin tạm ngưng bởi vì…Thưa rằng, cái vô minh của kiếp người thì luôn luôn diễn tiến bất tận dường như dằng dặc thấu vô biên cho nên hội chứng giáo chủ cũng…trường kỳ xuất hiện với nhân sinh mà không bao giờ buông dấu chấm hết.
Tà thuyết và chư vị giáo chủ dzổm luôn luôn tiếp nối nhau, sinh khởi và phát triển theo cái cuồng tín bất tận của nhân sinh!
Kiếp sống con người là ngõ cụt của sự cuồng tín không lối thoát.
Bi quan?
Cuồng tín Tootem, cuồng tín Pop Rock, cuồng tín khủng bố… cuồng tín tình yêu, nhan sắc phụ nữ… cuồng tín tôn giáo, giáo chủ, cuồng tín ảo ảnh thiên đường, cuồng tín chính trị, khoa học…
Trong tác phẩm “Từ thuốc đến thiền”, (Bản dịch của NGô Trung Việt), Triết gia Raihneeesh Osho nói:
…Sự cuồng tín thu hút những kẻ bệnh hoạn, sự cuồng tín trở thành nơi lẩn trốn cho những kẻ điên rồ. Những kẻ không bình thường đều giấu mình trong những kẻ cuồng tín, và tạo ra những hệ thống, lý thuyết, giáo điều để biện luận.
Hội chứng giáo chủ là hội chứng cuồng tín bản thân, như anh chàng Narciss chỉ say mê cái hình ảnh của mình trong gương. Và từ đó y nhào nặn ra một lớp tín đồ mê muội và hướng dẫn bọn họ đi theo cái cuồng tín của mình!
Đôi khi nghĩ về họ, về cuộc đời – chúng tôi chằng biết gì hơn, chỉ chắp tay khấn nguyện âm thầm:
- Nam Mô A Di Đà Phật, Nam Mô A Di Đà Phật… Nam Mô A Di Đà Phật.

***

Chương thứ mười

BÀI HỌC NHẤT HẠNH

I. - LẠC ĐƯỜNG VÀO CỬA PHẬT

Trong một buổi tháp tùng quý thượng tọa và một số đạo hữu từ Tp. Hồ Chí Minh lên Đà Lạt du khỏa các thắng tích, chúng tôi vô cùng hứng thú khi được ghé thăm một khu du lich sinh thái độc đáo, đồ sộ, bao la, lạ mắt và hấp dẫn về nhiều mặt.
Đây là một công viên phức hợp bao gồm một cách rừng rộng hơn 150 ha cùng những kiến trúc mô phỏng thiên nhiên tương tự các vườn cảnh Nhật Bản, do một nhà sư Phật giáo đã hao tổn biết bao công sức và tâm huyết suốt 15 năm để xây dựng với mục đích cống hiến cho tất cả mọi người thưởng thức. Nhà sư này đã bỏ công lặn lội tận Hà Nội và các tỉnh phía Bắc để lùng sực cho ra những người thợ quý hiếm trong việc chế tác chậu kiểng, hoa văn. Rồi bôn ba khắp các vùng núi non song ước suốt một dãy Trường Sơn trùng điệp để mang về từng gốc cây, từng khóm lan, trăm ngàn kỳ hoa dị thảo để trang trí cho từng góc xó của khu vườn cảnh bạt ngàn này.

Chưa kể bao đêm trắng để sáng tác những bài thơ rồi khắc đẽo trên sườn non, vách núi, tảng đã, trên than cây, trên sườn đồi, trên những cây cầu xi măng giả gỗ. Những dòng suối trong veo chảy dật dờ hai bên ngọn giả sơn to bằng hòn núi thật. Những khu rừng chàm hoa vàng bạt ngàn được chăm sóc tỉ mỉ và làm sạc cỏ rác hàng ngày để chống cháy.

Ai đấy đều ngây ngất trước một kì quan vừa thanh tú và diễm lệ này. Quả là một công trình tân kỳ, hi hữu, có tầm vóc quốc gia, đã mang lại niềm an tịnh và thú vị mà con người đã đánh mất bởi cuộc sống máy mọc hiện đại ngày nay.
Mọi du khach phương xa đều tỏ ra kinh dị khi biết tác giả công trình này là một nhà sư Phật giáo! Phải là một nghệ sĩ có tâm hồn sáng tạo và đầu óc kiến trúc, tính toán chi ly mới có thể tạo lập một cảnh quan du lịch độc đáo, hi hữu, đặc sắc như thế này!
Chúng tôi vừa rong theo những con đường cỏ mọc và hoa nở hai bên vừa nói chuyện bâng quơ.

Anh bạn thân nói:

- Đây là một công trình mang lại lợi ích cho nhiều người,rất đáng ca ngợi. Nhưng nếu tác giả là một nghệ sĩ thì…vô cùng tốt đẹp. Đáng được thưởng huân chương lao động vì sự cống hiến…cho đất nước một môi trường sinh thái kỳ vỹ và thanh tú, diễm ảo. Còn nếu một tu sĩ Phật giáo mà…bỏ hết bao tâm huyết và sức lực để bày ra một cảnh quan như vậy thì xin thưa thật…tôi thấy quá uổng phí một cuộc đời xuất gia! (đáng tiếc cho bộ y Tì kheo!).

Một người bạn khác:

- Theo niềm tin đơn bạc của tôi thì một người đã được khoác chiếc áo Tỳ-kheo thì chắc chắn người đó đã từng gieo trồng vô lượng vô biên phước đức nhân duyên với Tam Bảo. Thế thì bổn phận của một người khoác áo Tỳ - kheo là nên tiếp tục sự nghiệp xuất gia của mình quyết chí học tập kinh điển, giữ giới, thiền định và hoằng pháp lợi sanh cho đến khi chứng ngộ - chứ không phải là bận bịu với những công việc dấm dớ vô nghĩa này!

Cuộc đời thiếu những nhà sư tu tập thiền định để chứng ngộ chứ cuộc đời không thiếu những con người rành kiến trúc và xây dựng! Cuộc đời thiếu ánh sáng và giác ngộ để chúng sanh bớt mê muội, thoát lầm than và hết quay cuồng khổ đau vì vô minh, ái dục chứ cuộc đời không bao giờ thiếu những công trình mang lại thỏa mãn cảm giác và cảm hứng văn nghệ như thế này!

Tôi càng khen ngợi công trình này bao nhiêu thì lại càng tiếc cho Sư bấy nhiêu. Một nhà Sư lạc đường vào cửa Phật.

Cuối cùng , đại sư T. T nói:

- Những Tỳ - kheo nếu cứ chạy theo hư danh thế gian thì chính những cái “tiểu thành” này đã chôn sống sự nghiệp xuất gia, cắt đứt con đường thực hiện Chân lý của họ. Đây là căn bệnh trầm kha của một số tăng sỹ nhà Phật chứ không riêng gì vị sư này!

Chúng tôi thắc mắc:

- “Tiểu thành”. Từ ngữ ấy nghĩa là gì?

Đại sư T. T nói:

- Quý vị có lẽ đã từng đọc Nam Hoa Kinh của Trang Tử chứ? Ngay nơi thiên Tề Vật Luận có một câu rất hay:

Đạo ố hồ ẩn nhi hữu chân ngụy?
Ngôn ố hồ ẩn nhi hữu thị phi?
Đạo ố hồ vãng nhi bất tồn?
Ngôn ố hồ tồn nhi bất khả?

Đạo chính là Chân lý tuyệt đối, là cõi Vô Hạn, là cái Vô Cùng, vậy thì tại sao Đạo lại gồm chứa cả Chân và Ngụy, cả Tà và Chánh?
Ngôn ngữ chính là thể hiện của Đạo trong cuộc sống này, vậy thì tại sao Ngôn ngữ lại hàm chứa cả đúng sai, phải quấy?
Phải chăng Đạo đi ngang qua cuộc đời mà không để lại dấu vết?
Phải chăng ngôn ngữ thì lưu lại dấu vết (tồn tại) mà lại không có khả năng diễn đạt?
Thật vậy, Đạo bàng bạc khắp mọi nơi chốn, không có nơi nào mà không thể phát hiện dấu vết của Đạo và thật ra Đạo còn trú ngụ ngay trong tâm mình, đâu có xa xôi gì? Đâu có cách sông trở núi gì? Thế nhưng con người tìm kiếm mò mẫm mãi mà vân không nắm bắt được Đạo? Tại sao Đạo lại cứ lẩn quẩn nơi Chân Ngụy, Tà Chánh? Khiến cho con người mãi lúng túng , lộn tới, lộn lui? Tu hoài sao chẳng đắc? Tu mãi sao cứ lạc vào đường lối ma quỷ? Còn ngôn ngữ là sản phẩm của con người, vốn dùng để chỉ bày mọi sự việc giữa cuộc đời, dẫu là sự vật vô hình hay hữu hình, thế thì ngôn ngữ làm gì có đúng – sai, phải – trái, tốt – xấu? Thế nhưng tại sao Ngôn ngữ lại tỏ ra bất lực? Khiến chúng sinh lầm lạc mãi không thôi? Càng nói, càng thuyết giảng thì càng đi xa Chân lý và càng gây nên nhiều tà kiến, ngộ nhận và oán kết?

Cuối cùng Trang Tử nói:

“ Đạo ẩn ư tiểu thành, ngôn ẩn ư vinh hoa”

Trang Tử gợi ý: Đạo thường bị lẩn khuất nơi thành tựu nhỏ bé của con người (Đạo ẩn ư tiểu thành).

Và Ngôn ngữ thường bị ẩn giấu nơi chỗ bóng bẩy, lòe loẹt, phù phiếm (Ngôn ẩn ư vinh hoa).

Một con người bình thường nào đó như mỗi người trong chúng ta vậy, vốn biết bản thân có được tài năng thiên phú nào đó. Sau nhiều năm tháng tu học dưới mái trường thiền môn, thấy đạo pháp dường như suy tàn, vận mệnh tâm linh của dân tộc dường như không được sáng sủa, bèn có tham vọng thiết lập một giáo hội có tổ chức và phát động một cuộc cách mạng Phật giáo. Rồi trải qua bao nhiêu đắng cay thăng trầm, cuối cùng người ấy vượt thoát được những chướng ngại và thấy tiếng nói của mình đã thu hút được nhiêu người nghe theo, thấy tài năng của mình đã chinh phục được nhiều người khác, văn chương thi phú của mình đã làm mê đắm không biết bao người! Khi ấy, y vô cùng thỏa mãn, cho rằng mình đã mon men tới ngưỡng cửa gọi là “Thành công”, “đạt đạo”.

Đối với kẻ hành trì thực sự theo đạo Phật thì thành công rốt ráo nghĩa là đạt tới sự chứng ngộ hoàn toàn, giải thoát tuyệt đối. Còn ngoài ra tất cả những gì mà chúng ta kiếm chác được trong thế gian này chỉ là “những thành tựu nhỏ bé” mà thôi (tiểu thành). Như tạo lập một công trình kiến trúc nguy nga, đồ sộ và vĩ đại để thu hút khách nhàn du hoặc thăm quan, như khoe văn múa bút, triển lãm thư pháp,thư họa rồi sản xuất vài thi tập và phát hành trong giới văn nghệ để được tiếng là Nhà Thơ Thiền Vĩ Đại, vân vân…Chính cái “thành tựu nhỏ bé” này sẽ chặn đứng tất cả mọi sinh hoạt phát triển tâm linh của người xuất gia.

Đã là người xuất gia thì không nên thỏa mãn với những thứ “Thành quả rong rêu” hoặc những “Thành công cát bụi” ấy. Khi có chút niềm tin thực sự vào giá trị tâm linh thì Ngôi vua và cung điện cũng chỉ là rơm rác huống hồ là những thứ “Bằng khen hư vọng” của thế gian?

Như xây dựng được vài ngôi đại tự, lôi kéo được vài ba ngàn đệ tử,đỗ đạt có mấy bằng Tiến sĩ, nói thạo bảy tám thứ tiếng, phiên dịch được vài chục bộ kinh điển, biên soạn được dăm ba cuốn sách... v.v…Tất cả những cái đó đều là những thành tựu nhỏ bé chứ không phải thành tự viên mãn.

…. Bởi vì những cái thành tựu bé tí teo này chắc chắn sẽ ngăn trở con đường giải thoát và chứng ngộ của mình! Dường như chư vị cổ đức đã dạy rằng:
Thuận duyên đời: nghịch duyên đạo.
Thuận duyên đạo: chướng duyên tu!

Nhất Hạnh đã tự chôn vùi “Sự nghiệp chứng ngộ” của mình ngay nơi những cái thành tựu nhỏ bé của chính mình. Và Nhất Hạnh cũng tự xóa sổ cuộc sống tu hành của mình ngay nơi cái “vinh hoa” của ngôn ngữ do mình sáng tạo! Té ra người xưa cũng khôn ngoan minh triết tới vậy! Nhưng chúng ta thử tìm hiểu tại sao Nhất Hạnh lại dễ dàng tự chôn lấp và xóa sổ chính bản thân mình?
Áo Thầy rách đã bao năm…!

Câu trả lời độc nhất mà ai cũng nhận thấy: Nguyên do thất bại của Nhất Hạnh chính là “cái Ngã chấp quá lớn”.

Vâng, cái Ngã luôn luôn là kẻ tội đồ. “Kẻ thù ta đâu có phải người ngoài, nó nằm đây nằm trong ở mỗi ai!” (Tâm Ca của Nhất Hạnh và Phạm Duy 1965).
Đạo Phật quá cao siêu, thâm trầm, và… hấp dẫn những người trí thức, nhưng thực hiện được những lời dạy chân chánh của đức Phật thì... quả là thiên nan vạn nan. Dường như không thể. Tại sao như vậy? Bởi vì chính cái “tự ngã” của mình đã ngăn trở con đường trở về của mình, chứ không phải là một kẻ nào khác! Cái ngã đã đưa chúng ta đến với đạo Phật và cũng cái ngã đã ngăn trở chúng ta tiếp cận Chân lý! Cái ngã càng trương phình, thì trí tuệ vô lậu càng khó xuất hiện và tình thương yêu chân thật càng khó phát triển!
Thật là oái ăm gay cấn cho chúng ta, khi chúng ta chưa thể đạt tới trình độ “Vô ngã” mà bản thân cũng không chịu nằm lỳ trong trạng thái “Hữu ngã”!
Một ý thức sâu sắc về tính hữu hạn, thất thường, bất định mâu thuẫn và phải chết của con người. Nếu chỉ đích danh hơn, những tính chất hữu hạn, mâu thuẫn nội tại …ấy là đặc tính của cái ngã và những hoạt động phiền não của nó. Và trong tình trạng hiện thời, toàn bộ đời sống con người dựa vào cái ngã và những hoạt động tạo nghiệp của nó, hậu quả tất yếu là những khuyết điểm, lầm lỗi và khổ đau mà chúng ta gọi là sanh tử. Nhưng để thoát khỏi cái Ngã đó,với phần đông con người là không thể, vì làm bất cứ điều gì, dù tu hành để giải thoát hay làm tốt cho người khác thì vẫn nằm trong sự giật dây của cái tự ngã, chỉ làm cho cái tự ngã phụng sự cái tự ngã.

Với con người, không phải bao giờ cũng có thể vị tha thực sự, lợi mình lợi người thực sự, vì thông thường có “cái ta phản trắc” luôn ở trung tâm của mọi hành động. Không giải quyết được khổ đau của mình đồng thời chúng ta cũng reo rắc khổ đau cho người khác…Những mâu thuẫn muôn đời không thể nào giải quyết ở đời sống vận hành theo chiều hướng tư duy hữu ngã này.

(Nguyễn Thế Đăng. Nguyệt San Giác Ngộ, số 66 tháng 9/2001 tại Tp. Hồ Chí Minh)
Nói gì thì nói, tất cả việc làm của chúng ta nữa, kể cả công phu tu tập vô cùng nhiệt thành, tâm huyết, đều được phát triển theo “chiếu hướng tư duy hữu ngã”, trong khi yêu cầu của đạo Phật là phải đạt tới vô ngã mới có trí tuệ thực sự và từ bi vô biên.
Bao giờ chúng ta còn mang vác cái ách “Hữu ngã” thì chớ trông mong vịn vào bờ mé của cảnh giới niết bàn, mục tiêu tối hậu – Chính cái ách Hữu Ngã đã và sẽ ngăn chặn chúng ta thực hành Bồ tát đạo trong chí nguyện phục vụ chúng sanh một cách hiệu quả nhất. Chẳng lẽ chúng ta bất lực hay sao? Những người thực hành theo Pháp môn Niệm Phật, Nam mô A Di Đà Phật thì đã có sẵn đáp án từ ngàn xưa, nhưng vẫn còn luôn mới mẻ:

Đó là: Giải quyết công việc hành trí của mình bằng LÒNG TIN vào năng lực siêu việt tu duy và mô tả của chư Phật.

Nói theo hình ảnh của Kinh Pháp Hoa, chúng ta là những đứa con khốn cùng, dù có may mắn nghe được cha mình giàu có đến trùm khắp vô vàn thế giới đang ở nơi xa kia chờ mình thì cũng không đử sức trở về, dù có người dẫn dắt. Đôi chân con người đã mỏi mệt vì khổ đau của sinh tử, trí óc đã quá nặng nề vì những màn ảo hóa…và chỉ khi thấy rõ sự hữu hạn, nhỏ bé và bất lực của mình, thấy sự mâu thuẫn nằm trong chính nền tảng của bản thân, con người khổ đau đó mới mở mình ra trước lời kêu gọi đại nguyện của Phật A Di Đà. Chúng ta không biết làm gì hơn là phó thác, hiến mình và tin cậy.

Khi tự lực trong mức độ chúng sinh chỉ là thất thường, mâu thuẫn nội tại, chính lúc đó, bắt đầu sự lắng nghe sâu xa tiếng kêu gọi của bổn nguyện, sự chấp nhận phó thác cho công việc đại bi của Phật A Di Đà. Một chuyển hóa bắt đầu sảy ra, con người từ bỏ những bất toàn, những xung đột mâu thuẫn nội tại của mình để đi vào nguyện lực của đức A Di Đà. Do đó con người thấy ra tha lực.
Không chỉ để đối phó với khổ đau, đức tin còn là một monh mỏi bất tuyệt về một cõi không có ba đường ác(lời nguyện thứ nhất), thậm chí không có cả một danh từ để chỉ một sự ác nào(lời nguyện thứ 16).
Tích cực hơn, đức tin còn là một tình cảm nồng nhiệt đối với tất cả những gì đẹp đẽ, thanh tịnh đối với cõi nước,con người lành thánh…. của Phật A Di Đà. Chính sự kính ngưỡng đối với cõi Tịnh độ và Phật A Di Đà sẽ chuyển hóa những ham mê vào cõi dục của chúng ta, nguyên nhân của những phiền não, khổ đau.
Cuối cùng, đức tin đó khiến chúng ta mở tâm thức, mở tấm lòng để đón nhận ánh sáng của lòng bi A Di Đà.
(Nguyễn Thế Đăng, Nguyệt san Giác Ngộ số 66)

II. - CHUYỂN HÓA BẢN THÂN

Đúng như vậy, cá nhân ông NHất Hạnh rồi sẽ đi qua và biến mất trên hành tinh đầy bụi bặm này. Bản thân chúng tôi cũng sớm muộn gì cũng tự hủy và biến mất trong dòng sinh sinh hóa hóa vô thường này. Nhưng, cái còn lại sẽ là một bài học đau đớn, chua cay cho bất cứ ai còn có khát khao hướng về ánh sáng Như Thật Đạo.
Xin thưa: Bởi vì thất bại của Nhất Hạnh cũng chính là những thất bại của chúng tôi, của cả bạn của tất cả quý vị nữa!

Nhất Hạnh có cuộc đời rất đỗi bình thường, (nhiều lầm lỗi, giới hạn không tròn vẹn), tràn trề nhân tính (cũng biết dối trá, ba hoa, ưa khoa trương, khoác lác, ý niệm chấp ngã vô cùng to lớn), biết rung động trước cái đẹp thế gian và cả nhứng rung động tâm linh và có khả năng cuốn hút người khác bằng cái rung động của mình. Rồi, được nhân duyên đưa mình đến cửa thiền, thì Nhất Hạnh cũng chịu khó tu tập nghiêm chỉnh.
Khi có được đôi mắt chánh pháp (bi kiến, pháp kiến), Nhất Hạnh thấy cuộc đời sao mà quá sai lầm, bất công, trật trệu, cuộc sống dân chúng thì lầm than, xã hội loạn lạc – đạo Phật thì dường như kỷ cương tản mạn, nền tảng thì lung lay, rồng rắn và cả sâu mọt chen nhau gặm nhấm căn nhà do đức Phật để lại, Phật tử thì dường như có kiến thức tôn giáo vô cùng hạn chế, pháp môn thực hành thì lan man, niềm tin lây lất và chánh kiến lai rai, vân vân…cho nên Nhất Hạnh muốn làm một cái gì cho quê hương và đạo Phật.

Rồi biết bao nhiêu câu hỏi nẩy sinh trong tim, trong óc : Phật giáo có thể đóng góp được gì cho thực trạng hiện nay của dân tộc? Làm thế nào để hiện đại hóa Phật giáo?Làm thế nào để đưa đạo Phật đi vào cuộc đời? …. tất cả đều là ngã kiến dưới tham vọng bất tận của một người lạm dụng bộ y bá – nạp. Như bất cứ ai đã từng được Phật pháp mở mắt, Nhất Hạnh mà cũng có thể là cả chúng ta nữa, nếu không kiên trì tu tập thực sự tâm huyết, thì sẽ bị vọng thức phân biệt nổi lên và tự áp đặt cho bản thân những “vấn đề huyền ảo”, như : Làm thế nào để cải cách Phật giáo? Làm thế nào để thay đổi cuộc sống đau khổ của nhân loại? Làm thế nào để cứu vớt những người đang bị áp bức bởi bất công, ngu dốt, nghèo đói, thiếu tổ chức? Làm thế nào để …vân vân và vân vân. Nói chung là vô số vấn đề nhảy nhót rối rắm trong vọng tâm ô nhiễm của chúng ta! (Cạm bẫy cuộc đời không ở đâu xa mà luôn ngự trị trong tâm thức ta!). Tất cả đều là biến hiện của vọng thức phân biệt mà thôi. Đức Phật đã dạy chúng tôi như vậy.

Bởi vì: Được mở mắt không thôi thì chưa đủ. Mới có chút niềm tin vào năng lực tuyệt đối của Tam Bảo thì vẫn chưa đủ. (“Khi chưa chứng ngộ quả vị A la hán thì chúng ta chớ nên tin tưởng bản thân mình”, lời đức Phật Thích Ca dạy trong kinh tạng Nikaya). Chúng ta cần chứng ngộ thực tướng, mới có thể đủ năng lực tâm linh (Bi Trí trang nghiêm) và cả thần thông nữa, khả dĩ mới có thể giải đáp được những đòi hỏi nêu trên. Đến khi ấy, không còn gì đáng gọi là vấn đề nữa.
Một vị cao tăng của Việt Nam kể chuyện :

…Một tăng sỹ địa vị cao trong đạo, tánh tình chân thật, rộng rãi, ưa bố thí nhưng vấp phải một khuyết điểm là hay tự đắc, tự kiêu. Vài chánh khách thấy được chổ đó, đem một nhà tướng số đến giả vờ thăm chơi, rồi thuận tiện nhìn qua khen sư nhiều phước tướng, tất được vô số người ủng hộ, danh vọng càng thành đạt càng tiến cao. Ông ấy lại nói thêm, nếu sư thích hoạt động, sẽ trở thành một tay lãnh tụ, và như ở ngoài đời có thể làm đến tổng thống. Sư nghe xong tuy khiêm nhường đôi tiếng, nhưng lộ vẻ cực kì hoan hỷ. Nhân đó, các chánh khách than vãn thời thế, thương dân chúng khổ não, vận nước suy đồi, rồi dần dà thuyết phục lôi quấn sư vào một cuộc vận động chính trị.
Và cũng bởi đó, sư bị tai nạn trong một thời gian khá lâu.

Thế nên kẻ nhẹ dạ thường hay bị phỉnh gạt. Khi chưa diệt được tham vọng dễ bị người khác dung tiền tài, sắc đẹp hoặc địa vị cuốn lôi. Chô đến nếu còn tánh nóng nảy khí khái tất dễ bị người kích động, gánh vác lấy những việc phiền phức vào thân. Đây là cạm bẫy của đời mà cũng là của đạo, xin nêu ra để cùng khuyên nhắc cùng nhau, nếu không dè dặt những điểm đó sẽ vương vào vòng nghiệp chướng. Đối với những duyên thủ thách như thế, hành giả phải nhận định cho sáng suốt và sanh lòng quả quyết tiến theo đường lối hòa hợp đạo mới có thể thắng nó được.

(Tác giả: Hòa thượng Thích Thiền Tâm,
Niệm Phật Thập Yếu, tr. 283, 284. NXB Tp. Hồ Chí Minh)
Vấn đề của chúng ta không bao giờ nằm ở chỗ: phải làm gì cho nhân loại, làm gì cho đạo Phật mà vấn đề quan trọng duy nhất của chúng ta là: Làm thế nào để chứng ngộ, tức là đạt đến Đại Trí Tuệ (Tên gọi khác của Đại Bi Tâm).
Khi chưa có Đại Bi Tâm thì chớ có mơ tưởng đến việc thực hiện bất cứ công trình gì khác. Bởi vì đó là ảo tưởng của vọng thức phân biệt sẽ đưa tới khổ đau và mê muội.
Krishnamurti nói: Khi chúng ta không có năng lực Đại Bi chân thực thì tất cả mọi việc chúng ta làm đều đưa tới cái chết (When we have no Love, all that we do leads to death!) Đây là “tử huyệt” của một thiên tài như Nhất Hạnh vậy, và cũng là tử huyệt của tất cả chúng ta, nếu chúng ta cứ níu chặt và ôm ấp ngã kiến của mình. Một khi chúng ta không tập trung sức lực và toàn bộ cuộc sống vào công việc hành trình để chứng ngộ, hoặc để vãng sanh. (nói theo thuật ngữ Tịnh độ, bởi vì vãng sanh chính là chứng ngộ ngay trong kiếp sống này). Bao giờ chúng ta còn lơi là, bỏ bê công phu tu tập theo một pháp môn nào đó của đức Phật thì vọng thức phân biệt (ngã kiến) sẽ xuất hiện và đặt nên câu hỏi : Ta có thể làm gì cho nhân loại? Và Đạo Phật có thể đóng góp gì cho tình trạng hiện nay của dân tộc? Làm thế nào để hiện đại hóa Phật Giáo? Và làm thế nào để đưa đạo Phật đi vào cuộc đời? vân vân và vân vân.

Tóm lại, Nhất Hạnh có thể là một “đầu bếp khéo léo” trong việc chế biến đạo Phật thành một món ăn phù hợp với những người Tây phương quen thói nô lệ tinh thần khoa học,…và Nhất Hạnh đã thành công trong việc khuyến dụ những người Tây phương trở thành đệ tử của mình, giúp họ hưởng thụ những giây phút sảng khoái, thư giãn khi thực hành pháp môn “hiện pháp lạc trú”. Nhưng chúng ta hãy tâm niệm, đất nước Việt Nam vốn trưởng thành trong truyền thống tâm linh đạo học lâu đời, (có khuynh hướng tín ngưỡng Thiền Tịnh song tu, kiêm cá Mật), sẽ không cần một loại pháp môn pha chế ấy. Những món ăn kia thực sự chỉ thích hợp với những người Tây phương và những kẻ mang nặng khuyng hướng Tây học. Điều này rất tốt cho họ. Xin dẫn lại lời dạy của sư Khyentse Rinpoche:

Khi chúng ta nghĩ về mọi chúng sanh đau khổ vô vọng, chúng ta không thể giúp được gì ngoài cảm nhận thương cảm lớn lao đối với họ. Nhưng chỉ lòng thương cảm thôi thì chưa đủ, chúng ta cần giúp đỡ thực sự. Nhưng chừng nào tâm trí chúng ta còn bị hạn chế bởi sự ràng buộc, chỉ cho họ thức ăn, áo quần, tiền bạc, hay tình cảm đơn thuần, tuy là thiết yếu cho cuộc sống, sẽ chỉ mang lại cho họ niềm hạnh phúc giới hạn và nhất thời. Nếu chúng ta muốn giải thoát họ khỏi khổ đau hoàn toàn, trước hết chúng ta phải chuyển hóa bản thân chúng ta!

Vâng , Chúng ta phải chuyển hóa bản thân chúng ta bằng bằng một pháp môn nào đó do đức Phật Thích Ca dạy, và pháp môn ấy đã được lưu truyền cho đến nay. Đây là mệnh lệnh tâm linh của chúng ta, nếu chúng ta muốn trở thành người phật tử chân chánh. Hãy hành trì chân thật, ngay thẳng, thiệt thà. Và chớ nôn nóng cầu mong kết quả. Nên nhớ: đừng nôn nóng.

Trong thời đại mạt pháp, mà chúng ta được Tao Bảo ban cho một pháp môn để thực hành thì đây là niềm hạnh phúc tuyệt vời nhất, phước duyên lớn lao nhất, nguồn sống trường cửu nhất, do đó chúng ta chớ nên đòi hỏi gì cả. Hãy tin vào lời dạy tràn đầy từ bi, trí tuệ của Đại Giác Thế Tôn mà thành tâm, mà thực hành cho đến chết mới thôi.
Người tu tịnh độ tì cứ niệm Nam Mô A Di Đà Phật đêm ngày. Người tu Thiền thì cứ chăm chăm hít thở, thiền quán. Chó mơ ước bất kỳ một chút an lạc nhỏ bé nào cả, chớ băn khoăn mộng tưởng một thành quả rong bèo nào cả.
Bởi thực hành đúng pháp thì kết quả chân thật tự khắc sẽ tới, cần chi bôn ba khổ nhọc truy cầu?

III. NHỮNG NGƯỜI NHIỀU CHUYỆN

Nếu thân mẫu chúng tôi mà đọc được cuốn sách này thì chắc chắn bà sẽ chép miệng quở:
- Chà, cái ông Nhất Hạnh đã nhiều chuyện, bọn bây cũng nhiều chuyện không kém.
Thật vậy, bản chất cuộc đời vốn nhiều chuyện, nên chúng tôi vo cùng đắn đo khi viết cuốn sách này. Đôi khi tự hỏi: Mình viết để làm gì?

Có Nhất Hạnh hay không, và có cuốn sách này hay không thì cuộc đời vẫn thế, mây trắng vẫn bay và màu xanh thiên thu vẫn khoác cái đẹp vĩnh cửu lên ngàn cây nội cỏ. Cuộc đời an nhiên rộng mở và dàn trải tới vô cùng - cần gì tới lời lẽ của những gã ngông cuồng! Mặc dù người viết không hề ngạc nhiên khi thấy những vị thánh giả mạo như Thanh Từ, Nhất Hạnh, Thanh Hải, Lương Sỹ Hằng, Đạo Hú,…thường nối nhau liên tục xuất hiện trên thế giới này và luôn luôn có hàng ngàn, hàng triệu kẻ dại dột tin theo? Bởi vì …. Nếu hồn ta tràn đây tư tưởng nhảm nhí, tạp loạn, ham hố thần quyền…thì chúng ta sẽ chọn Thanh Hải làm đạo sư của mình. Nếu lòng ta là một đền miếu ngùn ngụt khói nhang, với những áo binh áo giấy sặc sỡ thì trước sau gì ta cũng rơi vào cái bẫy đồng bóng của Lương Sỹ Hằng, hay Tịnh Vương Nhất Tôn….
Nếu ta nôn nóng “thủ đắc một cái gì” và ham hố ảo tưởng chứng ngộ cấp tốc thì trước sau gì cũng bị Thanh Từ cho vào chiếc rọ “đốn ngộ” của ông ta.
Nếu tâm hồn ta chất chứa nhiều hạt giống “văn nghệ văn gừng” và ưa thích “an lạc giả tạo” thì sẽ bị Nhất Hạnh ám ốp rồi lôi kéo vào pháp hành “loạn xà ngầu” được pha chế từ vô số tư tưởng ngoại đạo của y. Nếu tâm ta là cánh rừng đầy lau sậy tà kiến, biếng tu duy và phản tỉnh, thì sớm muộn gì chúng ta cũng trở thành tín đồ của những vị thánh dzổm như ông Đạo hú, Đạo Ớt, Chơn Tánh Nguyên Hương. . v.v…
Vấn đề nằm ở trong chúng ta chứ không phải ở đâu xa ngoài thân tâm mình.
Cho nên nếu tâm chúng ta tang ẩn mầm mống Dức Tin, và may mắn có được chút ít nhân duyên phước đức từ nhiều kiếp trước, thì chúng ta sẽ phải nhận đức A Di Đà làm vị đạo sư chân thật của mình, để rồi sớm trở về cùng danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật. Tại sao thế? Bởi vì Đức Phật đã huyền ký trong vô số kinh điển:

“Đời mạt pháp, ức ức người tu hành, nhưng không có một ai chứng ngộ, chỉ nương pháp môn Niệm Phật mà chúng sanh có thể thoát ly sanh tử luân hồi”
Ai tin thì tin, ai không tin thì…thôi!

IV. LỜI CUỐI

Jacques Prévert, một thi sỹ được mến mộ nhất nước Pháp sau thế giới đại chiến lần thứ hai, đã viết trong tập thơ Paroles :
Ô Notre Père sủ lé Cieux! Restez-y!
Bản dịch của Trần Phong Giao :
Lạy Cha chúng con ở trên trời, xin Cha hãy ở yên ở trên ấy!
Thì thái độ của chúng tôi cũng tương tự như vậy, chúng tôi sẽ bắt chước nói như thi sỹ J. Prévert:
Kính lạy hòa thượng Nhất Hạnh, mong ngài cứ ở yên bên Tây để đi dưởng thân già! Xin đừng quấy rầy đến cuộc song tâm linh của người Việt Nam nữa !
Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam Mô A Di Đà Phật


Mùa An Cư Ất Dậu, 2005
Quách Thị Song Phu.

----------

Thưa bạn hữu
.
Là một người quy y tam bảo, nhưng không vì thế mà người Phật tử đó u mê, nhắm mắt cuồng tín mê muội "quy y tăng" tin vào những kẻ đội lốt tu hành mà không dùng TRÍ để phán xét những sự việc sai quấy vây quanh đời sống tâm linh của mình,của gia đình mình và xã hội nơi đang sinh sống, vì lẽ đó tôi có cái nhìn rất khinh miệt những kẻ tu hành, đội lốt tu hành cho dù là tôn giáo nào đi nữa, không cứ khoác cái áo cà sa lên mình là có đặc quyền ăn nói, đặc quyền suy nghĩ & việc làm trái ngược với lương tâm và đạo pháp, gây tổn hại đến thanh danh chung của những người đồng đạo, đã từ lâu tôi được chứng kiến tìm hiểu các tin tức xác thực về việc làm của ông thầy chùa Nhất Hạnh này, điển hình sau vụ 911 xảy ra ở Hoa kỳ và ông thầy chùa N.H. này đã có những lời tuyên bố láo khoét tại thành phố NewYork về sự việc ở thị xã Bến Tre VN, một nơi theo lời ông thầy chùa N.H. mô tả là quân đội đồng minh đã dội bom giết chết 300,000 (ba trăm ngàm) thường dân VN ở đây, chắc các bạn hữu còn nhớ sự việc này phải không ? Và nay đọc xong tài liệu này, biết thêm 1 số dữ kiện khác về thầy chùa N.H. này, dẫu biết rằng mình sẽ mắc phải một nghiệp khẩu lớn, cũng đành chịu vậy thôi, biết sao hơn trước những cảnh trái tai gai mắt do ma vương đội lốt tu hành trong thời đại mạt pháp như hôm nay ! Mong các thân hữu đại xá và thông cảm cho những lời lẽ "nặng nề" cần thiết này
..
TỔ CHA THẦY CHÙA
.
Bình vôi, áo thụng thầy chùa,
“Thiền sư” Nhất Hạnh quỷ lừa tha nhân.
Tâm xà khẩu Phật đại THAM,
SI cuồng điên dại, lòng SÂN chất đầy.
Tựu chung ba thứ nơi “thầy”,
Cuồng điên đạo pháp vui vầy Chân Không (*)
Làng Mai tổ ấm “sư” ông,
Ngày chay đêm mặn động phòng Phượng (*) cô.
Ban ngày ban mặt : Nam mô,
Đêm khuya tĩnh mịch mò vô phòng nàng.
Sư này lòng dạ hổ mang,
Cuộc tình hai mụn con chàng như khuôn.
Lòng tin Tam Bảo vùi chôn,
Thỏa lòng nhục dục sống khôn liền bà.
Ấy thời mạt pháp quỷ ma,
Cà sa núp bóng : -Tổ cha thầy chùa.
Đường tu nào khác Chúa, Vua,
Dục, Danh có đủ đâu thua kém gì !
.
(*) tục danh Cao Ngọc Phượng, aka sư cô Chân Không, vợ của Nhất Hạnh

------- ooOoo --------

Powered By Blogger